Chương XI

TUỔI TRẺ VIỆT NAM NGUYỆN SỐNG, CHIẾN ĐẤU, LAO ĐỘNG HỌC TẬP THEO GƯƠNG BÁC HỒ VĨ ĐẠI,

CỐNG HIẾN XUẤT SẮC ĐƯA SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG MIỀN NAM ĐẾN TOÀN THẮNG

Ngày 2-9-1969 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đang bước vào giai đoạn quyết định, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và thế hệ trẻ nước ta, chịu một tổn thất lớn lao: Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế, người sáng lập Đảng, Nhà nước, quân đội và Đoàn ta, người thầy, người Bác vô cùng kính yêu đã đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ thanh niên Việt Nam thành những chiến sĩ cách mạng kiên cường, không còn nữa!

Toàn thể cán bộ, đoàn viên, thanh niên và đội viên thiếu niên, nhi đồng nước ta vĩnh biệt Người với nỗi xót thương vô hạn.

Trải qua gần nửa thế kỷ đấu tranh oanh liệt, Đoàn ta và tuổi trẻ Việt Nam, luôn được sự quan tâm chăm sóc và sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và của Bác Hồ kính yêu.

Đánh giá đúng đắn khả năng cách mạng to lớn của thanh niên, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tổ chức, bồi dưỡng đoàn viên, thanh niên thành đội quân xung kích của cách mạng, lực lượng hậu bị của giai cấp và dân tộc. Từ “Bức thư tâm huyết” gửi thanh niên Việt Nam hồi đầu thế kỷ đến lời di chúc cuối cùng, Bác Hồ luôn dành cho thế hệ trẻ Việt Nam tình cảm thương yêu trìu mến và sự ân cần chăm sóc lớn lao.

Được Đảng và Bác Hồ giáo dục và rèn luyện, các thế hệ thanh niên nước ta đã trưởng thành nhanh chóng và có những cống hiến xứng đáng. Bác Hồ và Đảng đã coi sự trưởng thành của lớp thanh niên nước ta là một trong những thành quả vĩ đại của cách mạng, có quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau, làm cho Người khi còn sống “rất tự hào, sung sướng và thấy mình như trẻ lại”. Vĩnh biệt chúng ta, Bác Hồ kính yêu đã để lại cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng nước ta “muôn vàn tình thương yêu”. Người đánh giá: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ”, và căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Người khẳng định: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” (Di chúc).

Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, đáp ứng nguyện vọng của thế hệ trẻ và theo đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt Nam, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng (3.2.1930 - 3.2.1970), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết cho Đoàn thanh niên và Đội thiếu niên, Đội nhi đồng được mang tên Bác:

- Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam nay là Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh.
- Đội Thiếu niên Tiền phong Việt Nam nay là Đội Thiếu niên Tiền Phong Hồ Chí Minh.
- Đội Nhi đồng Việt Nam nay là Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh.

Từ ngày 30 tháng 6 năm 1970, Tổ chức Đoàn thành niên nhân dân cách mạng và Tổ chức Đội thiếu niên, nhi đồng miền Nam cũng được chính thức mang tên Bác.

Tổ chức Đoàn và tổ chức Đội được mang tên Bác là vinh dự lớn lao đồng thời là trách nhiệm nặng nề trước Tổ quốc và nhân dân. Đoàn ta được mang tên Bác Hồ càng làm nổi rõ mục đích và tính chất của Đoàn là đội tiền phong chiến đấu của thanh niên, đi đầu phấn đấu cho lý tưởng cách mạng cao cả là độc lập, tự do, thống nhất, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản và rèn luyện nên những lớp chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi kiên cường theo mẫu mực của Bác Hồ vĩ đại. Đó là sự đánh giá cao của Tổ quốc, của nhân dân, của thời đại đối với những cống hiến và con đường tu dưỡng, rèn luyện của thế hệ trẻ trong thời đại Hồ Chí Minh.

Hội nghị lần thứ 13, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, với niềm xúc động sâu sắc đã thiết tha kêu gọi toàn thể cán bộ, đoàn viên và thanh niên “Hãy ra sức thi đua sẵn sàng chiến đấu, đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập. Chúng ta quyết học tập và làm theo 5 điều Bác dạy, rèn luyện lập trường tư tưởng, trau dồi đạo đức phẩm chất cách mạng, nâng cao trình độ về mọi mặt, phấn đấu trở thành lớp người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như Bác đã dạy”.

Hội nghị cũng kêu gọi các em thiếu niên, nhi đồng “Hãy học tập và làm theo 5 điều Bác dạy, thi đua làm nghìn việc tốt, ra sức xây dựng Đội vững mạnh, phấn đấu trở thành “Cháu ngoan Bác Hồ”.

“Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” trở thành nguyện vọng tha thiết và quyết tâm phấn đấu của thế hệ trẻ nước ta. Đây là sự biểu hiện cụ thể lòng thương nhớ và biết ơn của thế hệ trẻ đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết mãi mãi làm theo lời dạy của Người và đi theo con đường mà Người đã vạch ra.

“Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” trở thành khẩu hiệu hành động cụ thể, thân thiết và gần gũi nhất đối với mỗi đoàn viên và thanh niên.

Nhận rõ vinh dự và trách nhiệm, Đoàn ta đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị tập trung sâu rộng về Bác Hồ trong đoàn viên và thanh niên cả nước. Ban Chấp hành Trung ương Đoàn vạch rõ rằng học tập và làm theo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 5 điều Bác dạy thanh niên, 5 điều Bác dạy thiếu niên, nhi đồng là đợt sinh hoạt chính trị mở đầu nhằm “làm cho đoàn viên, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng thấm nhuần công lao, sự nghiệp, đạo đức của Bác. Từ đó nâng cao lòng tự hào, tin tưởng, đoàn kết quyết tâm phấn đấu, không sợ khó khăn gian khổ, hoàn thành mọi nhiệm vụ công tác để ngày càng xứng đáng với Bác hơn nữa”.

Kỷ niệm lần thứ 39 ngày truyền thống vẻ vang của Đoàn (26.3.1931 - 26.3.1970), Ban Chấp hành Trung ương Đoàn đã tổ chức trọng thể lễ đón nhận nghị quyết của Ban Chấp Trung ương Đảng cho phép tổ chức Đoàn và tổ chức Đội được mang tên Bác Hồ vĩ đại. ý thức rõ trách nhiệm của thế hệ thanh niên trong thời đại Hồ Chí Minh, đoàn viên và thanh niên cả nước hứa:

- Mãi mãi nêu cao chí khí cách mạng “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, quyết chiến đấu đến cùng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

- Không ngừng học tập và rèn luyện đạo đức cách mạng để xứng đáng là thế hệ thanh niên Hồ Chí Minh vinh quang.
- Ra sức xây dựng và củng cố Đoàn, tích cực tham gia xây dựng Đảng, làm cho Đoàn thanh niên xứng đáng là đội tiền phong chiến đấu và trường học cộng sản chủ nghĩa của thế hệ trẻ nước ta, và là cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng.

Giáo dục, rèn luyện thế hệ thanh niên đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng đang đặt ra luôn là nhiệm vụ trước hết của tổ chức Đoàn. Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đoàn lần thứ 8 (khóa III) chỉ rõ nhiệm vụ công tác giáo dục của Đoàn là: “Nhằm đào tạo thanh niên thành lớp người phát triển toàn diện, có đầy đủ khả năng kế tục sự nghiệp cách mạng, lớp người có khí phách cách mạng và đạo đức cộng sản, trung thành vô hạn với Tổ quốc và lý tưởng cộng sản, căm thù sâu sắc bọn đế quốc và bọn bóc lột, đồng thời nắm vững kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật tiên tiến và có sức khoẻ”.

Lấy việc nâng cao giác ngộ chính trị, tư tưởng cho đoàn viên thanh niên là cơ bản, tổ chức Đoàn đã thường xuyên tổ chức cho thanh niên học tập, tìm hiểu đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời đưa thanh niên vào thực tiễn đấu tranh cách mạng. Thông qua hoạt động sản xuất, chiến đấu, qua việc thực hiện các chính sách cụ thể, qua các cuộc vận động lớn của Đảng và Nhà nước như “3 xây, 3 chống”; “cải tiến quản lý”, “xây dựng kinh tế văn hoá miền núi”,v.v… làm cho nhận thức của cán bộ, đoàn viên và thanh niên ngày một nâng cao, là một biện pháp thường xuyên mang lại hiệu quả thiết thực, phù hợp với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi. Mặt khác, Đoàn quan tâm giáo dục tinh thần lao động mới, ý thức làm chủ tập thể và nghiêm khắc phê phán những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, những ảnh hưởng của tư tưởng tư sản… Việc giáo dục về Đảng, về Đoàn, giáo dục về truyền thống cách mạng, về văn hoá, khoa học kỹ thuật, thể dục thể thao nếp sống mới xã hội chủ nghĩa… được các cấp bộ Đoàn ngày càng quan tâm và có nhiều hình thức phong phú. Từ cuối những năm sáu mươi, công tác giáo dục của Đoàn càng đi vào nề nếp, 5 bài học giáo dục cơ bản được các cơ sở Đoàn tổ chức định kỳ hàng năm cho tất cả đoàn viên thanh niên cùng tham gia nghiên cứu, học tập.

Việc hình thành một hệ thống các hình thức, phương pháp giáo dục thích hợp với đặc điểm lứa tuổi, từng đối tượng thanh niên, từ giáo dục tập trung theo 5 bài giáo dục cơ bản, tổ chức những đợt sinh hoạt chính trị theo từng chuyên đề, khi có những nghị quyết của Đảng, nhất là những nghị quyết, chỉ thị về công tác thanh niên; những bài nói, những lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thư của Bác gửi cho thanh niên… đến giáo dục cá biệt, giáo dục qua hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao,v.v... là một bước tiến trong công tác giáo dục của Đoàn.

Đợt sinh hoạt chính trị về việc tổ chức Đoàn và tổ chức Đội được mang tên Bác và học tập Di chúc của Bác đã đem đến cho đoàn viên và thanh niên những nhận thức sâu sắc về Bác Hồ, về Đảng. Lúc còn sống, Hồ Chí Minh là Cha, là Bác, là Thầy dạy thanh niên, chỉ cho thanh niên con đường tiến tới, vạch cho thanh niên phương hướng hành động. Vĩnh biệt toàn Đảng, toàn dân và thanh niên nước ta Người để lại tấm gương vĩ đại nhất, trong sáng nhất, đẹp đẽ nhất về tư tưởng, đạo đức, tác phong và ý chí cách mạng, cổ vũ thanh niên kiên quyết tiến lên hàng đầu, làm người chiến sĩ cách mạng kiên cường, mang lá cờ trăm thắng của Đảng, của Bác tới đích thắng lợi cuối cùng.

Nhận thức được nâng cao, đoàn viên và thanh niên càng mong muốn được cống hiến nhiều nhất cho Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Trên 3 triệu đoàn viên và thanh niên đã đăng ký chương trình hành động cách mạng và kế hoạch tu dưỡng, rèn luyện theo tấm gương vĩ đại của Bác Hồ. Hàng vạn thanh niên, nhận rõ sứ mệnh lịch sử của thế hệ mình và thấm nhuần Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ đã phấn đấu đứng vào hàng ngũ chiến đấu của Đoàn.

Hiệu quả trong hoạt động giáo dục của Đoàn đã được chứng minh bằng những phong trào cách mạng rộng lớn, mà đỉnh cao là hàng triệu đoàn viên và thanh niên đã sôi nổi khí thế “Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong” lập nên những chiến công sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Càng trong thử thách ác liệt, phẩm chất của những người đoàn viên thanh niên có giác ngộ càng được bộc lộ rõ. Thanh niên đảo Hòn Mắt, một hòn đảo chưa đầy 2 kilômét vuông, nhưng là một túi bom của Mỹ. Đi qua về lại chúng đều trút bom và bắn rốc két xuống đảo. Phạm Quốc Bùi mới ra đảo, lần đầu giáp trận, tỏ ra ngán ngại, cho rằng chiến đấu ở đảo dễ bị hy sinh và không ai biết đến. Lập tức Đoàn đứng ra tổ chức diễn đàn về lẽ sống và cái chết của người đoàn viên thanh niên trước vận mệnh của Tổ quốc. Nhiều đoàn viên và thanh niên cho rằng chiến đấu không phải vì danh hiệu mà vì một lý tưởng cao đẹp, dù có phải hi sinh cũng phải biết hi sinh thế nào cho xứng đáng. Bản thân Phạm Quốc Bùi cũng nhận ra chân lý và trở thành một pháo thủ xuất sắc. Có trận địch tập trung đánh vào trận địa ác liệt, anh bị hất ngã, đã vùng dậy, động viên anh em giữ vững trận địa.

Tuổi trẻ đồn công an Nà Ngòi, trong điều kiện hoạt động ở một vùng đồng bào dân tộc thiểu số, còn nhiều phong tục tập quán lạc hậu, nhờ làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tất cả đoàn viên và thanh niên của đồn đều thấy rõ nguồn gốc sâu xa những lạc hậu mà đồng bào dân tộc phải gánh chịu, đã kiên trì bám sát dân, vận động từng người bỏ tệ nghiện ngập, bỏ cả việc cúng ma, từ đó tiến lên vận động nhân dân phối hợp tiêu diệt bọn phỉ hoạt động lén lút trong rừng, bảo vệ cuộc sống bình yên cho dân bản.

Cùng với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, việc xây dựng Đoàn vững mạnh về mặt tổ chức là một yêu cầu khách quan không ngừng nâng cao sức mạnh chính trị của  tổ chức Đoàn, đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn đầy thử thách quyết liệt. Tổ chức Đoàn thật sự trở thành hạt nhân đoàn kết, tập hợp xung quanh mình mọi tầng lớp thanh niên yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong nhiều hình thức thích hợp, trong đó đáng chú ý là tổ chức đội TNXP chống Mỹ, cứu nước cơ sở.

Chiến tranh đã làm đảo lộn sinh hoạt của các cơ sở Đoàn và gây thêm khó khăn trong mọi hoạt động của thanh niên. Không ít cán bộ Đoàn có năng lực, có kinh nghiệm và nhiệt tình đã được bổ sung vào các lực lượng vũ trang hoặc đi thanh niên xung phong. Việc động viên một lực lượng lớn thanh niên ra mặt trận đã ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng công tác Đoàn và phong trào thanh niên ở các vùng nông thôn. Tỷ lệ đoàn viên ở cơ sở bị giảm sút. Phần lớn cán bộ nam đi chiến đấu, do đó số bí thư Đoàn xã là nữ có thời kỳ chiếm tới 63%.

Tập hợp hết thảy đoàn viên và thanh niên vào tổ chức, cùng hướng tới hành động vì cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước là một đòi hỏi cấp bách. Cùng với việc kéo dài tuổi đoàn viên tới 30 và hạ thấp tuổi kết nạp vào Đoàn những thanh niên 15, BCH Trung ương Đoàn còn chủ trương thành lập đội TNXP chống Mỹ, cứu nước cơ sở bên cạnh đội TNXP chống Mỹ, cứu nước tập trung, thu hút hầu hết đoàn viên và thanh niên đóng góp phần công sức của mình vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.

Với đội TNXP chống Mỹ, cứu nước cơ sở, nhiều cơ sở Đoàn đã có những thay đổi phương thức hoạt động phù hợp, góp phần động viên tuổi trẻ phấn đấu tăng năng suất lao động, tích cực bảo vệ sản xuất, sẵn sàng chiến đấu. Nhiều người do những hoàn cảnh khác nhau đã bỏ sinh hoạt Đoàn, khi có đội TNXP chống Mỹ, cứu nước đã trở lại sinh hoạt. Có người đã trưởng thành nhanh chóng. Phan Thị Lan ở chi đoàn Tứ Thôn (Thái Bình) khi có con, chồng đi chiến đấu xa, đã tự bỏ sinh hoạt Đoàn. Được Đoàn động viên và làm tốt công tác hậu phương, Lan trở lại sinh hoạt, lúc đầu chỉ là tham gia các hoạt động của đội TNXP chống Mỹ, cứu nước cơ sở, phấn đấu tốt, trở thành đảng viên, được giao làm đội phó, rồi đội trưởng sản xuất, tổ trưởng Đảng. Trường hợp Trịnh Thị Luật (Nam Định) lại khác. Là một thanh niên công giáo, vốn có nhiều mặc cảm, nhưng thực tế hoạt động của Đoàn đã cuốn hút Luật. Cô tham gia công tác xã hội, làm đội phó sản xuất, mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, làm đội trưởng một đội sản xuất lớn toàn bà con theo đạo.

Đi đôi với việc tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng thanh niên trong đội hình TNXP chống Mỹ, cứu nước cơ sở, các cơ sở Đoàn đã chú trọng xây dựng và củng cố tổ chức vững mạnh. Phong trào xây dựng Đoàn cơ sở và chi đoàn 4 tốt được mở rộng có tác dụng nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đoàn ở cơ sở. ở Nam Hà (nay là Nam Định và Hà Nam), bước vào năm 1966 công tác tổ chức của Đoàn. Tỉ lệ đoàn viên chỉ chiếm 21% tổng số thanh niên. Số chi đoàn đạt tiêu chuẩn 4 tốt chỉ chiếm 6,2% và chỉ có 25% số Đoàn xã có đủ điều kiện phát thẻ đoàn viên.

Bằng nhiều hình thức và biện pháp thích hợp, các cấp bộ Đoàn Nam Hà luôn gắn chặt giữa phát triển và củng cố tổ chức, coi tổ chức có ý nghĩa quyết định đối với mọi mặt công tác Đoàn và phong trào thanh niên. Hầu hết các cơ sở Đoàn đều có qui hoạch phát triển đoàn viên. Chất lượng đoàn viên mới vì thế không ngừng được nâng lên. Phần lớn số này một thời gian sau khi được kết nạp, thông qua rèn luyện trong thực tế, đều được công nhận là đoàn viên 4 tốt, góp phần đưa tỉ lệ đoàn viên đạt tiêu chuẩn 4 tốt lên 47,5% (năm 1967), số chi đoàn đạt 4 tốt từ 81,42% năm 1966 lên 33,5% năm 1967.

Cuộc vận động xây dựng chi đoàn, phân đoàn 4 tốt, phấn đấu trở thành đoàn viên 4 tốt với những nội dung cụ thể và có biện pháp chỉ đạo thích hợp, được duy trì trong nhiều năm đã góp phần đáng kể củng cố và phát triển tổ chức Đoàn ở cơ sở. Nhiều chi đoàn đã đóng vai trò nòng cốt trong hoạt động sản xuất cũng như chiến đấu ở địa phương, đơn vị. Chi đoàn Nam Ngạn (Thanh Hoá) tính đến năm 1973 đã góp phần xây dựng nên tập thể dân quân anh hùng, 8 năm liền đạt danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”, 11 đoàn viên được kết nạp Đảng, 1 đoàn viên được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang, 7 đoàn viên được tặng thưởng Huân chương các loại, 42 lượt đoàn viên và thanh niên được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua. Chi đoàn được Trung ương Đoàn tặng cờ mang chân dung Nguyễn Văn Trỗi. Đơn vị dân quân Nam Ngạn, trong đó đoàn viên và thanh niên đóng vai trò nòng cốt, được Nhà nước tặng danh hiệu đơn vị anh hùng.

Thông qua thực tiễn sản xuất và chiến đấu cũng như học tập và rèn luyện, công tác phát triển đoàn viên mới được các cơ sở Đoàn thường xuyên coi trọng. Sau khi Bác Hồ qua đời, đầu năm 1970, cùng với đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong thanh niên cả nước, BCH Trung ương Đoàn quyết định phát triển lớp đoàn viên Hồ Chí Minh. Hàng vạn thanh niên ưu tú được rèn luyện và trưởng thành trong chiến đấu, lao động và học tập, công tác đã được đứng vào hàng ngũ của Đoàn.

ở các tỉnh, thành phố trên chiến trường miền Nam, trong hoàn cảnh vừa chiến đấu, vừa xây dựng và phát triển tổ chức, từ tháng 2-1967, Đoàn TNND cách mạng quyết định phát triển lớp đoàn viên Hồ Chí Minh trong 2 năm. Đến khi tổ chức Đoàn được mang tên Bác, BCH Trung ương Đoàn TNND cách mạng lại chủ trương đẩy mạnh công tác phát triển Đoàn lên một bước mới, không chỉ trên địa bàn các vùng giải phóng hoặc ở các cơ quan, mà đi sâu vào vùng yếu, nhất là ở các thị xã, thị trấn và ở các thành phố lớn, làm tăng đáng kể số lượng đoàn viên hoạt động tại chỗ, đặc biệt là ở nhiều ấp, xã… vốn là những sơ cở trắng trong nhiều năm. Đến cuối năm 1969, trên toàn miền Nam đã có 39.762 đoàn viên so với 36.260 đoàn viên năm 1968 (không kể số đoàn viên trong lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong). Do đó số xã, ấp “trắng” thu hẹp dần. Các tỉnh, thành đều thành lập thêm nhiều chi đoàn, phân đoàn hợp pháp, làm cho tổng số chi đoàn của toàn miền lên đến 2.529 (còn thiếu cơ sở nội thành và không kể chi đoàn trong lực lượng vũ trang). Nhiều chi đoàn nhỏ, linh hoạt, hoạt động bí mật trong thành phố được thành lập. Khả năng của các đoàn viên “mật” được phát huy tác dụng không chỉ làm nòng cốt trong chiến đấu, còn góp phần đáng kể xây dựng và củng cố tổ chức Đoàn. Nhiều đoàn viên “mật” được điều đến các vùng yếu, giáp ranh, phát triển cơ sở mới, lấp vùng  “trắng”. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1971 ở tỉnh Bến Tre đã phát triển được 37 chi Đoàn “mật”, số ấp trắng từ 87 xuống còn 48. Cũng thời gian đó ở Mỹ Tho (ngày này thuộc tỉnh Tiền Giang) đã phát triển 349 đoàn viên “mật”,  lập thêm 27 chi đoàn “mật”, xóa được 87 ấp “trắng”.

Nhiều thanh niên trong vùng địch tạm chiếm từ lâu vốn thiết tha với cách mạng, với Đảng, với Đoàn, được Đoàn trực tiếp dìu dắt giáo dục và được đứng vào hàng ngũ chiến đấu của Đoàn, nay càng hăng say, tận tụy vì cách mạng. Không ít đoàn viên được kết nạp lớp đoàn viên Hồ Chí Minh đã phấn đấu trưởng thành nhanh chóng. Nhiều người được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Trong số 400 đoàn viên ở cơ sở của tỉnh Lâm Đồng, số đoàn viên là đảng viên dự bị chiếm 68%. Nhiều người trở thành cán bộ chi đoàn, phân đoàn. Số đông trở thành những chiến sĩ kiên cường, tham gia tích cực các mặt công tác cách mạng, đạt danh hiệu dũng sĩ. Trong đó các đoàn viên lớp Hồ Chí Minh tại thành phố Sài Gòn đã góp phần cùng đơn vị biệt động của thành, mưu trí, táo bạo đánh sập toà báo chính luận của ngụy quyền tay sai dám xúc phạm đến lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc. Các chiến sĩ còn đánh sập cư xá Mỹ diệt hàng trăm tên sĩ quan cấp cao đang tụ tập bàn mưu kế gây tội ác, đánh tầng 3 cư xá quân cảnh của lính đánh thuê Thái Lan,v.v…

ở Mỹ Tho đội biệt động của Thành Đoàn dưới sự chỉ huy của Huỳnh Văn Long đã mưu trí đưa mìn vượt qua sông Bảo Định để đánh sập Nhà hàng Việt Hải, nơi bọn sĩ quan Mỹ và bọn ác ôn thường đến ăn nhậu, diệt 30 tên ( có 8 tên Mỹ). Trong chiến công có sự đóng góp tích cực của Trịnh Văn Vũ, một thiếu niên mới 13 tuổi. Lợi dụng lứa tuổi địch còn ít để ý, Vũ đã khôn khéo áp sát mục tiêu, điều tra, nghiên cứu kỹ trận địa, vận chuyển mìn, lựu đạn, súng ngắn. .. để các chiến sĩ biệt động đánh địch.

Đáng chú ý là trong đợt thi đua “Học tập và làm theo Di chúc Bác Hồ”, trên chiến trường Tây Nguyên, một du kích trẻ, mới 16 tuổi, chỉ với 3 viên đạn súng trường đã bắn rơi chiếc máy bay trực thăng chở tên tướng 3 sao Giôn Đinla, Tư lệnh công binh Mỹ tại chiến trường miền Nam Việt Nam và tên tướng 2 sao A Đam cùng đi. Đó là chiến sĩ du kích Puil Glỡ, người làng Maih, xã Ia Rung (Chưpăh - Gia Lai). Puih Glỡ sinh ra trong một gia đình có 5 anh em thì anh, chị và mẹ đã phải chết đói và bệnh tật. Cha bị địch bắt, bị chúng đánh đập thành tật. Ngày anh tham gia vào đội du kích, cha anh dặn: “Mày đi du kích đánh Mỹ, đánh ngụy phải đi đến cùng, không được bỏ về làng”. Năm 11 tuổi Glỡ vào ở với đội du kích địa phương, từng nhiều lần vào tận nơi bọn lính Mỹ trú quân, lân la làm quen với chúng, nắm tình hình mọi mặt bố phòng của địch, làm dấu vào từng ngón tay, số quân, số súng, hầm hào, hàng rào sắt đường đi, bãi mìn… báo lại cho đội du kích, chính xác đến từng chi tiết. Đơn vị bố trí lực lượng đã đánh là thắng. Ngày 12-5-1970, đang trên đường đi công tác, Glỡ bất ngờ bắn rơi chiếc máy bay trực thăng chở tên tướng 3 sao Giôn Đinla cùng đồng bọn khi chúng sà thấp quan sát vùng Tây Bắc thị xã Peiku. Tiếp đó khi 3 chiếc phóng pháo của địch từ hướng Pleiku bay tới sà xuống thấp tìm kiếm chiếc máy bay đã bị bắn rơi trước đó, Glỡ, cũng với 3 loạt đạn bắn vỗ mặt, đã làm một chiếc trực thăng của Giôn Đinla, bổ nhào xuống đất cách chiếc trực thăng chỉ vài trăm bước chân.

*
*     *

Chuyển hướng “Việt Nam hoá chiến tranh” lấy bình định nông thôn làm nòng cốt, địch huy động 70% quân chủ lực và hầu hết bảo an, dân vệ cùng hàng vạn cảnh sát dã chiến và trên 40 ngàn cán bộ bình định càn quét, đánh phá, chà đi xát lại các vùng đông dân với những biện pháp tàn bạo, thâm độc hơn hẳn bất cứ thời kỳ nào trước đây.

Năm 1969 chúng tập trung sức vào việc đẩy lùi các đơn vị chủ lực của ta ra khỏi các vùng đông dân, đồng thời ráo riết đánh phá cơ sở cách mạng, gom dân, đóng đồn bốt lấn chiếm, xây dựng bộ máy kìm kẹp, vơ vét người, của nhằm giành và tạo cho được thế kiểm soát nhân dân nông thôn để khôi phục, củng cố ngụy quân, ngụy quyền cơ sở, tăng cường hệ thống phòng thủ, bảo vệ an toàn cho các thành thị để đưa quân chủ lực ngụy cơ động ra phía trước thay thế dần cho quân Mỹ rút. Chúng triển khai chương trình “Phượng hoàng” để tiêu diệt cơ sở ta bằng mọi thủ đoạn thâm độc, ác hiểm ở cả thành thị lẫn nông thôn.

Với chiến lược “quét và giữ” ráo riết của Mỹ-Ngụy, các cơ sở của Đoàn cũng như các cơ sở cách mạng của Đảng đứng trước nhiều khó khăn. Phần lớn căn cứ của cơ quan Tỉnh Đoàn, Huyện Đoàn bị đẩy lùi ra xa. Một bộ phận không nhỏ thanh niên phải rời bỏ địa bàn đi nơi khác.

Bên cạnh những khó khăn chung, thanh niên ở các địa phương còn phải đối phó với kế hoạch bắt lính đôn quân tàn bạo của địch nhằm tăng cường quân ngụy thay dần cho quân Mỹ. Chúng coi đó là vấn đề cấp bách. Với bộ máy kìm kẹp gắt gao, chúng thúc ép, cưỡng bức thanh niên vào các tổ chức “phòng vệ dân sự”, “nhân dân tự vệ”. Thực hiện cái gọi là “tự phòng”, ngụy quyền cố sức xây dựng một lực lượng hậu bị hơn 1 triệu người. Chúng chia tổ chức phòng vệ dân sự ra làm 3 loại: Số lớn tuổi, từ 40 trở lên, nếu chịu nộp mỗi tháng từ 500 đến 700đ thì được miễn canh gác; lứa tuổi thanh, thiếu niên chúng bắt tập quân sự, trang bị một số súng và lựu đạn (thường là súng xấu và đạn ít) bắt canh gác ở những nơi công cộng vào ban đêm. Chúng lựa một số thanh niên có sức khoẻ tổ chức thành lực lượng phòng vệ xung kích phiên chế thành từng toán (gọi là nhân dân tự vệ chiến đấu và nhân dân tự vệ nòng cốt) trang bị súng tốt và có nhiều đạn. Chúng cho số liên toán trưởng, liên toán phó luân phiên đi học chính trị, quân sự và đưa bọn bảo an, dân vệ kìm kẹp, bắt thanh niên phòng vệ đi canh gác, phục kích, giữ đồn, rồi làm dân vệ, bảo an. Sau này Mỹ-Ngụy bắt buộc bộ máy kìm kẹp ở xã, ấp bắt lính mở các cuộc hành quân cảnh sát với lực lượng ít, kết hợp do thám chỉ điểm nơi thanh niên trốn để bắt êm. Đồng thời chúng lùng bắt táo bạo ở những nơi có đông thanh niên, bao vây cả chùa chiền, thánh thất để bắt thanh niên tu sĩ vào lính.

Ở các vùng tôn giáo chúng lợi dụng danh nghĩa “bảo vệ đạo” để thu hút thanh niên vào các tổ chức bán vũ trang và các sắc lính làm nhiệm vụ tại địa phương để từng bước đôn quân. Ở thành thị chúng đánh trượt học sinh qua các kỳ thi cử. Có nơi chúng đánh trượt tới 1/2, thậm chí 2/3 để bắt lính. Chúng còn lũng đoạn bọn tay sai ở các xí nghiệp sa thải công nhân, để chúng dễ bề đẩy vào lính.

Chưa bao giờ cuộc đấu tranh giành và giữ thanh niên lại trở nên quyết liệt như trong thời kỳ đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Theo thống kê của khu Đoàn miền Trung Nam Bộ, của tổ chức Đoàn Bắc Long An, của Tỉnh Đoàn Tây Ninh đã có 35.000 thanh niên đấu tranh chống bắt lính quyết liệt. Riêng các tỉnh thuộc T.2 (Mỹ Tho, Kiến Phong, Kiến Tường, Long An, Bến Tre) có 130.000 lượt thanh niên tham gia đấu tranh chống bắt lính bằng mọi hình thức. ở các địa phương khác đã có trên 30.000 lượt thanh niên chống bắt lính thắng lợi, đồng thời làm tan rã 35.000 phòng vệ dân sự.

Đứng trước tình hình kẻ địch ngày càng điên cuồng thực hiện kế hoạch đôn quân bắt lính, tháng 2-1970, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đoàn TNND cách mạng lần thứ 4 đã ra nghị quyết về nhiệm vụ “giành giữ, bảo vệ thanh niên, chống địch đôn quân, bắt lính, phá vỡ phòng vệ dân sự…”

Khi bàn đạp đứng chân đã vững, các cơ sở Đoàn đã tổ chức các cuộc vận động giúp đỡ thanh niên trốn lính và lính trốn. Nhiều cán bộ Đoàn đã tranh thủ mọi hoàn cảnh để vận động thanh niên không đi lính làm bia đỡ đạn cho Mỹ-Ngụy.

Phong trào chống bắt lính lan rộng khắp nơi. Hình thức chống bắt lính ngày càng phong phú. Thanh niên theo đạo Cao Đài ở Bến Tre đã tuyệt thực đấu tranh chống bắt lính. ở Mỹ Tho, thanh niên trong các khu tập trung khi địch bắt lính đã đấu tranh buộc địch phải thả hầu hết số anh chị em bị bắt. Có lúc địch dụ dỗ hàng ngàn anh em thanh niên vào chùa thầy Khanh để úp bộ bắt anh em vào lính. Được cán bộ Đoàn động viên, hướng dẫn hàng trăm thanh niên đã tìm cách rời bỏ chùa, nhờ đó thoát được âm mưu bắt lính của địch. Hình thức chống bắt lính cao nhất của thanh niên là tập hợp lại thành tổ chức có vũ trang để cùng nhau canh gác và tự vệ. Có nhiều xã anh em đã tự tổ chức thành từng tiểu đội, trung đội chống bắt lính, vừa tham gia sản xuất, vừa bố trí chiến đấu, sống chết có nhau quyết không để cho địch bắt. Tháng 3-1972 ở tỉnh Kiến Phong đã xuất hiện một kiểu chống bắt lính bằng bạo lực của khoảng 200 thanh niên. Anh em tự tổ chức ra một khu trốn lính có bố phòng cẩn mật. Họ hùn tiền mua súng đạn để tự vệ. Địch cho quân đến càn anh em đã chiến đấu suốt cả một ngày, diệt gần 50 tên. Khi bọn trên quận biết tin cho thêm lính tăng viện, anh em lại tạo ngay thế hợp pháp đấu tranh trực diện với chúng.

Thanh niên trong các thành thị miền Nam, nhất là ở thành phố Sài Gòn đã kiên quyết đấu tranh chống chế độ quân sự hoá học đường của Mỹ-Ngụy. Cuộc đấu tranh kéo dài trong nhiều năm. Đến tháng 8-1970 các phòng quân sự ở các phân khoa Đại học Cần Thơ, Huế, Đà Lạt, Sài Gòn đã bị thanh niên học sinh các trường đốt sạch. Cuối tháng 8 năm đó, sinh viên Phạm Hạnh bị chết ở quân trường Quang Trung, sinh viên đã biến đám tang anh thành một cuộc biểu tình với khẩu hiệu: “Chương trình quân sự hoá học đường là âm mưu khát máu của đế quốc Mỹ” và “Mỹ cút, ngụy nhào, quân sự học đường dẹp”… 1.700 học sinh, sinh viên đã xô xát với một tiểu đoàn lính ngụy canh giữ quân trường để đưa tang anh.

Phong trào đòi “tự trị đại học”, chống “quân sự hoá học đường” của học sinh, sinh viên ngày càng phát triển. Nhiều cuộc biểu tình bằng xe máy, tán phát hàng vạn truyền đơn, liên tục nổ ra. Địch đàn áp, bắt nhiều sinh viên lãnh đạo phong trào như các anh Nguyễn Ngọc Phương, Trần Khiêm, Dương Văn Đầy, Nguyễn Tấn Tài… Ngày 11-3-1970 chúng bắt anh Huỳnh Tấn Mẫn, Chủ tịch Tổng Hội sinh viên Sài Gòn. Phong trào đấu tranh đòi thả sinh viên, học sinh bị bắt nổ ra rầm rộ. Một đoàn các giáo sư và dân biểu quốc hội của chế độ ngụy đã vào nhà tù thăm học sinh, sinh viên bị bắt, sau đó công bố rộng rãi trên báo chí bằng chứng cụ thể về bọn mật vụ, công an đã dùng nhục hình tra tấn 41 học sinh vừa bị bắt. Bãi khoá nổ ra ở các trường đại học, trung học. Số học sinh, sinh viên Sài Gòn tham gia lên tới 6 vạn người.

Thanh niên học sinh, sinh viên còn sáng tạo nhiều hình thức đấu tranh gây ấn tượng mạnh. Trong đó có phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe, nghe đồng bào tôi nói”, không chỉ ảnh hưởng trong các giới đồng bào ở Sài Gòn mà đã lan rộng ra nhiều thành phố và vùng nông thôn rộng lớn.

*
*    *

Cùng với các cuộc đấu tranh giành và giữ thanh niên, đoàn viên và thanh niên trong các lực lượng vũ tranh giải phóng đã góp phần cùng quân và dân kiên cường bám trụ, ngăn chặn đánh phá lấn chiếm, tiêu hao, tiêu diệt ngày càng nhiều sinh lực địch, từng bước làm phá sản chiến lược “quét và giữ” của chúng, tiến lên giành thế chủ động trên chiến trường.

Cuộc chiến đấu thời kỳ này không chỉ trong phạm vi chiến trường miền Nam Việt Nam. Từ ngày 30-4-1970 Mỹ-Ngụy mở cuộc hành quân “Bình Tây” đánh vào 6 tỉnh phía Đông-Bắc Campuchia, đồng thời sử dụng lực lượng phỉ ở Lào, có lính đánh thuê Thái Lan và hàng ngàn lần máy bay Mỹ yểm trợ, mở các cuộc hành quân lấn chiếm nhiều bản làng, thực hiện cái gọi là “đô thị hoá” cưỡng bức ở Lào: Cả Đông Dương trở thành một chiến trường. Tuổi trẻ Việt Nam dưới ngọn cờ của Đảng, sát cánh cùng quân và dân hai nước Lào và Campuchia anh em ngoan cường, dũng cảm đập tan âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ. Sau khi giải phóng Atôpơ, phối hợp với lực lượng yêu nước Campuchia, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã đánh địch ở các tỉnh phía Đông-Bắc Campuchia, tiêu diệt hàng chục tiểu đoàn quân Lon-non và quân ngụy Sài Gòn, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn từ Đông-Bắc Campuchia - Nam Lào, đến Tây Nguyên. Níchxơn bị thua đau, buộc phải tuyên bố rút quân khỏi Campuchia đúng 2 tháng sau khi hùng hổ mở cuộc hành quân “Bình Tây”. Cuối năm 1970, chúng lại ngoan cố phản kích một lần nữa để càng chuốc lấy thất bại thảm hại, bị loại khỏi vòng chiến đấu 54.000 tên, trong đó có 13.770 tên Mỹ, 620 máy bay bị bắt rơi và phá huỷ; 3.375 xe, 66 tàu, xuồng chiến đấu bị bắn cháy, v.v…

Trên chiến trường Lào, cuộc hành quân Cù Kiệt của địch kéo dài hơn nửa năm, từ tháng 8-1969 đến tháng 2-1970, bị đập tan ở cánh đồng Chum, Xiêng Khoảng. Tiếp đó một bộ phận quan trọng lực lượng phỉ Vàng Pao và lính đánh thuê Thái Lan bị tiêu diệt ở Xảm Thông - Long Chẹng và bị truy kích ở vùng Pắc-Bang (Uđômxay). Đêm 28 rạng ngày 29-4-1970 lực lượng địch ở Atôpơ và Xaravan (Nam Lào) bị tiêu diệt, 2 thị xã này và một số vùng lân cận hoàn toàn được giải phóng.

Trên chiến trường miền Nam, cùng với việc đánh bại những cuộc hành quân chặn của địch ở phía trước, tuổi trẻ cùng quân và dân các địa phương tiếp tục bao vây dài ngày, tiêu diệt hàng loạt căn cứ quan trọng của địch ở các khu giáp ranh vùng đồng bằng và ven đô thị: Đắc Xiêng (Bắc Kon-Tum), Cốc Bài, Đá Bàn (Tây Trị-Thiên). ở thành phố Huế ta vây và tiêu diệt ở điểm cao 935. ở Quảng Nam buộc chúng rút ở Hiệp Đức, loại hơn 4.100 tên, có 200 tên Mỹ; 159 máy bay, 59 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy.

Trong chiến đấu, nhiều đoàn viên, thanh niên đã tỏ rõ tài trí và tinh thần quả cảm đánh địch nhiều trận hết sức độc đáo. Trường hợp đội an ninh vũ trang tỉnh Mỹ Tho chiến đấu trong điều kiện không cân sức để bảo vệ căn cứ Tỉnh ủy ở Long Tiên khi bất ngờ bị lực lượng lớn địch tấn công là một trận đánh khá táo bạo. Lực lượng chênh lệch 1 phải chọi với 50, không thể đối mặt chặn đánh địch, các chiến sĩ trẻ trong đơn vị, trong đó có Ba Điện (sau này là Anh hùng lực lượng vũ trang) và Tư Bốn (tức Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Việt Thành hiện nay) đã lựa chọn một phương pháp đánh địch chưa có tiền lệ trong chiến tranh hiện đại, nhưng lại phù hợp với điều kiện tác chiến để bảo vệ căn cứ khi địch đông gấp bội: Chỉ đánh bằng lựu đạn! Lựu đạn cài ở “bãi chết”, lựu đạn được phóng tới mục tiêu bằng giàn thun… Kẻ địch không tài nào phán đoán được hướng tấn công của đối phương, càng không thể nắm được lực lượng của đội an ninh vũ trang. Trong khi chỉ với những vạch làm điểm chuẩn dưới chân và nút áo của người kẹp lựu đạn (chủ yếu do Tư Bốn đảm trách) các chiến sĩ an ninh vũ trang được một chiến sĩ ngồi trên cây cao rậm rạp “chấm toạ độ” cũng có thể cho lựu đạn nổ chụp hoặc phang thẳng vào đội hình địch, gây sát thương cho chúng trên diện rộng. Địch tìm cách đối phó. Nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Với phương châm “lấy của địch đánh địch” các chiến sĩ của ta đã xoay hướng trái gài vào mìn Playmore của địch. Sáng ra chúng tới chỗ cũ gỡ trái thì mìn nổ. Thế là “gậy ông lại đập lưng ông”.

Nam thanh niên chiến đấu thông minh, tài trí. Nhiều nữ thanh niên chiến đấu trong vòng vây của địch cũng tỏ rõ phẩm chất của mình, chiến đấu ngoan cường và dũng cảm. Dương Thị Lệ là Thường vụ Ban Chấp hành Đoàn xã Tam Hiệp, tham gia đội du kích của xã được cử làm xã đội phó, kiêm nhiệm vụ y tá của đội. Với túi đồ nghề và khẩu carbine trong tay, Lệ đã cùng đội du kích chiến đấu nhiều trận. Trong trận chiến đấu đánh trả một tiểu đoàn bảo an càn quét lấn chiếm, Lệ đã cùng đội du kích dũng cảm đánh bật nhiều đợt tấn công của địch. Chúng không tiến nổi phải bung ra đồng trống. Chớp thời cơ, Dương Thị Lệ đã cầm cờ lao lên thúc giục toàn đội xung phong rượt địch, diệt nhiều tên. Bọn địch hoảng sợ phải bỏ dở cuộc càn chạy về lộ 4. Sau này Dương Thị Lệ đã được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.

Tiêu biểu là người con gái anh hùng Lê Thị Hồng Gấm. Là một người con gái lớn lên trên vành đai diệt Mỹ Bình Đức (một tên khác của căn cứ Đồng Tâm - Mỹ Tho), Lê Thị Hồng Gấm đã từng chứng kiến nhiều cảnh dã man, tàn bạo của địch đối với đồng bào, đồng chí mình. Gấm đã tình nguyện gia nhập lực lượng du kích ở địa phương, thường xuyên đứng chân trên vành đai, chiến đấu nhiều trận, diệt 20 tên địch vừa Mỹ vừa ngụy. Ngày 18 tháng 4 năm 1970, Lê Thị Hồng Gấm được lệnh dẫn một số cán bộ đi nghiên cứu tình hình. Chuẩn bị vượt qua một khoảng đồng trống, bất ngờ gặp lực lượng địch đi càn. Với quyết tâm bảo vệ cán bộ, một mình một súng, Gấm đã đánh trả bọn địch đông gấp nhiều lần, diệt nhiều tên và bắn bị thương một máy bay lên thẳng của chúng. Lực lượng không cân sức cuối cùng chị đã hy sinh. Tấm gương của Lê Thị Hồng Gấm cùng với nhiều tấm gương khác như Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Lê Mã Lương… từng cổ vũ lớp lớp thanh niên hai miền Nam Bắc nỗ lực vươn lên lập công, góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Cùng với đòn tiến công quân sự, hàng triệu lượt đồng bào và thanh niên đã nổi dậy giành quyền làm chủ. 6 tháng đầu năm 1970 hơn 5 triệu lượt đồng bào và tuổi trẻ đồng bằng sông Cửu Long  đã nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều vùng. ở Trung Trung Bộ có hơn 80 vạn thanh niên cùng nhân dân nổi dậy, làm tan rã hơn 40.000 tên trong bộ máy ngụy quyền tay sai, giải phóng thêm 270.000 người. Trong ngày lễ Phật Đản năm 1970 có tới 25 vạn đồng bào phật tử ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng… đã xuống đường đòi hoà bình, chấm dứt chiến tranh xâm lược, lên án Mỹ-Ngụy giết hại Việt kiều ở Campuchia. Phối hợp với các cuộc đấu tranh trên, hơn 70.000 công nhân, thuộc 118 nghiệp đoàn Sài Gòn đã bãi công. Tiếp đó 100.000 công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn lại bãi công đòi quyền dân sinh dân chủ, đòi Mỹ rút về nước.

*
*    *

Thời gian từ sau khi Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền Bắc, phong trào “Ba sẵn sàng” của tuổi trẻ miền Bắc phải trải qua những thử thách để đứng vững và phát triển trong điều kiện mới đầy khó khăn, vừa phải tranh thủ hàn gắn vết thương chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, vừa phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi kiểu chiến tranh đế quốc Mỹ có thể gây ra, đồng thời hết lòng, hết sức chi viện cho cách mạng miền Nam và chi viện cho chiến trường 2 nước bạn Lào và Campuchia.

Tháng 12 năm 1969, Ban Thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam quyết định chuyển hướng phong trào “Ba sẵn sàng” nhằm đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới. Trong khi tiếp tục giáo dục đoàn viên và thanh niên phát huy hơn nữa chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, Trung ương Đoàn rất coi trọng hướng nhiệm vụ trung tâm của phong trào “Ba sẵn sàng” lúc này là lao động sản xuất, học tập, tu dưỡng và rèn luyện.

Lao động có tổ chức, có kỹ thuật và năng suất cao là một đòi hỏi cấp bách. Trong điều kiện sản xuất của những năm khôi phục kinh tế, hàn vết thương chiến tranh không chỉ cần tinh thần sẵn sàng đảm nhận công việc khó khăn phức tạp mà còn phải tìm tòi những hình thức thích hợp, những phương pháp có hiệu quả nhằm động viên đoàn viên và thanh niên tác động vào những khâu yếu nhất trong khoa học công nghệ và quản lý. Khẩu hiệu hành động “kỹ thuật cao, lao động giỏi” và sau đó là cuộc vận động “hai mũi tiến công thắng Mỹ” là quá trình phát triển phong trào “Ba sẵn sàng” trong thanh niên công nhân. Cuộc vận động được bắt đầu từ những nhà máy, xí nghiệp ở Hà Nội và nhanh chóng lan ra ở nhiều nhà máy, xí nghiệp công trường khác. Từ các cuộc vận động trên, tiến thêm một bước, tổ chức Đoàn ở nhiều cơ sở, trước hết là ở Công ty Gang thép Thái Nguyên và Nhà máy Dệt 8-3 (nay là Công ty Dệt 8-3), đã mở các hội thi tài để chọn những thợ giỏi của cơ cở, về sau trở thành một phong trào mang nhiều ý nghĩa và tác dụng là phong trào “luyện tay nghề và thi chọn thợ giỏi”.

Phong trào “luyện tay nghề thi chọn thợ giỏi” ra đời trước đòi hỏi bức thiết của sản xuất cần có đội ngũ công nhân có tay nghề ngày càng vững, đã nhanh chóng phát triển sâu rộng trong thanh niên công nhân, lôi cuốn cả những người lớn tuổi cùng tham gia.

Năm 1971, ở Hà Nội trong 178 cơ sở sản xuất đã có 108 cơ sở tổ chức cho thanh niên ôn luyện tay nghề và thi chọn thợ giỏi, thu hút hơn 30.000 đoàn viên và thanh niên tham gia. Cùng thời gian, ở 11 Tỉnh, Thành Đoàn, đơn vị trực thuộc cũng đã có 400 cơ sở Đoàn tổ chức cho thanh niên ôn luyện tay nghề, thi chọn thợ giỏi, thu hút trên 40% đoàn viên và thanh niên tham gia. ở tỉnh miền núi Hoà Bình có tới 43,5% tổng số cơ sở và 43.1% tổng số đoàn viên, thanh niên công nhân trong tỉnh tham gia “luyện và thi”. ở Quảng Bình trong điều kiện khó khăn, các cơ sở sản xuất chưa kịp khôi phục, nhiều cơ sở còn phải tổ chức sản xuất trong hầm địa đạo, Đoàn thanh niên vẫn tổ chức cho đoàn viên và thanh niên ôn luyện tay nghề. 41% thanh niên công nhân trong 21 đơn vị thuộc 4 ngành trong toàn tỉnh đã chọn thợ có tay nghề khá cùng các giáo viên chia nhau về từng căn hầm kèm cặp nhau cùng ôn luyện. ở Công ty Gang thép Thái Nguyên, lúc đầu chỉ có 10 cơ sở Đoàn tổ chức luyện tay nghề, nhưng đến năm 1971 đã có hơn 30 cơ sở tổ chức cho thanh niên luyện và thi. Năm 1967 có 10 thợ giỏi cấp công ty, đến năm 1971 có tới 55 thợ giỏi.

Qua những hội thi tài, thi chọn thợ giỏi ở cơ sở, từ tổ sản xuất đến phân xưởng, nhà máy đã tiến tới thi chọn thợ giỏi ở cấp ngành. Từ năm 1971, thanh niên ngành dệt đã tổ chức thi chọn thợ giỏi trong toàn ngành, chọn được hàng trăm thợ giỏi trong toàn ngành, chọn được hàng trăm thợ giỏi tiêu biểu, phát hiện được nhiều thao tác tiên tiến, đưa vào qui trình công nghệ, góp phần nâng cao năng suất lao động. Trong đó lối đi tua “hoa hồng” của Cù Thị Hậu, công nhân đứng máy của Nhà máy Dệt 8-3 là một sáng tạo đem lại nhiều hiệu quả. Nhiều đoàn viên, thanh niên, thông qua các hội thi chọn thợ giỏi càng thêm gắn bó với nghề. Phạm Thị Liên, Nguyễn Thị Phú… đã vượt qua lựa chọn từng cách đi tua để giành năng suất cao. Trịnh Thị Toan khi bước vào nghề dệt mới chỉ là một công nhân bình thường, nhưng đã kiên trì học hỏi những thợ dệt đi trước, tìm ở họ những thao tác tiên tiến có thể vận dụng cho mình, vươn lên đứng đầu hội thi thợ dệt giỏi của toàn nhà máy, và sau đó toàn ngành.

Đoàn thanh niên ở nhiều cơ sở còn có sáng kiến kết hợp với chủ trương thi nâng bậc hàng năm của đơn vị để tổ chức luyện và thi, vì thế phong trào không còn là của riêng thanh niên. Chính quyền và công đoàn đã trực tiếp giúp đỡ và tạo mọi điều kiện, kể cả việc cử những công nhân có tay nghề cao kèm cặp, để các thợ trẻ rèn luyện nâng cao tay nghề.

Phong trào luyện tay nghề thi chọn thợ giỏi ngày càng được phát triển ở hầu khắp các ngành nghề làm nảy nở ngày càng nhiều những tay thợ trẻ xuất sắc, đảm đương được nhiều công việc của thợ bậc cao. Như trường hợp Ngô Thị Sửu, một thợ hàn cao áp, say sưa bám sát chuyên gia học hỏi kinh nghiệm, để rồi tự mình giải quyết thành công những mối hàn phức tạp. Hay như Thái Hiền Lương, vào nghề 2 năm đã có trình độ tay thợ bậc 4, vẫn không ngừng vươn lên nắm vững khoa học kỹ thuật, vừa làm thợ, vừa học hàm thụ đại học, năm nào cũng có sáng kiến cải tiến có giá trị.

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, phong trào xây dựng “cánh đồng 5-10 tấn thắng Mỹ” tiếp tục được đẩy mạnh và nâng cao. Phong trào được mở rộng sang cả các lĩnh vực rau, màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Nhất là trong lĩnh vực chăn nuôi. Những “ô chuồng, dãy chuồng” tăng trọng ra đời đáp ứng yêu cầu của các trại chăn nuôi tập thể. Từ Hà Nội, thanh niên nông dân ngoại thành đã có sáng kiến xây dựng dãy chuồng “trăm con vạn cân”, tức là mỗi đoàn viên, thanh niên nhận chăm sóc, nuôi dưỡng 100 con lợn, đạt trọng lượng xuất chuồng 100kg/con. Phong trào có sức hấp dẫn những thanh niên làm nghề chăn nuôi ham tìm tòi hiểu biết những vấn đề khoa học kỹ thuật có liên quan đến con lợn. Ngô Thị Phú (Hà Nội), Phạm Thị Hải (Hải Phòng) là những đoàn viên đã bỏ nhiều công sức tìm tòi, xây dựng nên những qui trình chăm sóc cho từng loại lợn, mang lại hiệu quả rõ rệt.

Đáng chú ý là thời kỳ này, bên cạnh việc không ngừng nêu cao quyết tâm phấn đấu mở rộng diện tích trồng trọt bằng cách khai hoang phục hoá, san lấp hố bom, thùng đào thùng đấu… thanh niên nông thôn đã đặc biệt coi trọng trau dồi và nâng cao kỹ năng nghề nông. Nhiều hội thi cấy theo lối mới, thi cày, kể cả cày bằng máy được tổ chức rộng khắp, từ cơ sở lên cấp huyện, tỉnh. Trung ương Đoàn đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp tổ chức hội thi cấy theo lối mới ở toàn miền Bắc, chọn ra được nhiều cặp cấy đúng kỹ thuật, nông tay vừa phải và thẳng hàng. Hội thi thợ lái máy cày giỏi toàn miền Bắc cũng đã được tổ chức. Nhiều thợ lái máy cày trẻ đã trình diễn những thao tác lái máy tiên tiến trên những phương tiện cải tiến phù hợp với từng đồng đất.

Nhiều hình thức thi đua xuất hiện trong thanh niên nông thôn. ở huyện Thọ Xuân (Thanh Hoá) thanh niên thực hiện “giỏi một việc, biết nhiều việc”. Tổ chức Đoàn ở địa phương thường xuyên chú trọng bồi dưỡng nâng cao kỹ năng lao động cho thanh niên. 100% số chi đoàn trong các hợp tác xã có tổ chuyên giống, góp phần đào tạo thợ cày, thợ cấy cho hợp tác xã. Thanh niên nông thôn Hải Phòng có hình thức thi đua “hai giỏi thắng Mỹ” (Lao động giỏi, kỹ thuật giỏi) đi sâu vào thâm canh tăng năng suất cây trồng.

Thanh niên là những người đi đầu trong việc áp dụng rộng rãi những tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong việc xử lý giống và chăm sóc cây trồng, đi đầu trong phong trào làm phân bón và áp dụng những phương pháp bón phân đạt hiệu quả cao. Công tác thuỷ lợi được đẩy mạnh. Thanh niên là những người hăng hái tham gia các đội chuyên thủy lợi. Những người không có điều kiện tham gia các đội thủy lợi 202 (tập trung) thì tham gia làm thủy lợi nội đồng, góp phần cải tại đồng ruộng, nhất là đi đầu áp dụng những biện pháp tưới tiêu theo khoa học.

Năm 1971 là năm các tỉnh miền Bắc gặp thiên tai lớn. Lũ lụt phá hoại nghiêm trọng mùa màng ở nhiều tỉnh. Thanh niên không những là lực lượng xung kích trong chống lũ mà còn đi đầu trong việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới trong gieo trồng đảm bảo ứng phó kịp thời với tình hình. Trong đó có việc gieo mạ sân, ngay khi nước lụt vẫn còn trắng đồng, hoặc gieo trồng cây vụ đông trên nền đất phù sa. Nhiều nơi như ở Hải Hưng, Hà Bắc do vỡ đê, có vùng phù sa ngập đến ngang thắt lưng, thanh niên vẫn không quản khó khăn gieo trồng chăm chút từng hạt ngô, từng dây khoai lang.

Đồng thời với việc đẩy mạnh phong trào lao động sản xuất, các cơ sở Đoàn ở nông thôn đã tích cực vận động đoàn viên và thanh niên đi đầu thực hiện cuộc vận động “Phát huy dân chủ, tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quần chúng nông thôn” của Đảng. Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn đã nhấn mạnh: “Cần xác định rõ trách nhiệm và quyền làm chủ tập thể của đoàn viên, thanh niên trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội và trách nhiệm của tổ chức Đoàn trong việc tham gia quản lý hợp tác xã, tăng cường nền kinh tế tập thể, phát huy quyền làm chủ tập thể của thanh niên”.

Việc hình thành những đội thanh niên kiểm tra và tổ chức các hội nghị xã viên trẻ là những hình thức hoạt động thể hiện ý thức trách nhiệm của đoàn viên và thanh niên nông thôn trong việc tham gia quản lý. Tổ chức Đoàn hợp tác xã Văn Quán (Vĩnh Phú) là đơn vị đã tổ chức sớm những hội nghị xã viên trẻ, đóng góp nhiều kinh nghiệm quí về việc Đoàn thanh niên chủ động nắm và thực hiện kế hoạch sản xuất của hợp tác xã cũng như tham gia phân bố lực lượng lao động trẻ vào các khâu của sản xuất và đời sống.

*
*   *

Trên chiến trường miền Nam, thừa thắng xốc tới, năm 1971, tuổi trẻ góp phần đánh bại 3 cuộc hành quân lớn của địch: Lam Sơn 719, Toàn Thắng 1-1971 và cuộc hành quân ra vùng 3 biên giới. Trong đó cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh vào khu vực đường 9-Nam Lào là cuộc hành quân điển hình của chiến lược Việt Nam hoá. Tiếp sức cho cuộc hành quân của chúng còn có các lực lượng quân ngụy Viêng Chăn và lính đánh thuê Thái Lan từ căn cứ Xênô và Pắcxế đánh vào phía Tây đường số 9 và cao nguyên Bôlôven.

Sau nhiều trận đánh phủ đầu quyết liệt vào những căn cứ bàn đạp của địch ở Khe Sanh, Đông Hà, Lao Bảo (Bắc Quảng Trị) ngày 8-2-1971, phối hợp cùng quân và dân Lào, các chiến sĩ ta đã dũng mãnh xông lên đánh chiếm Sêpôn, cứ điểm xung yếu của địch ở Nam Lào. Tiếp đó đánh các cứ điểm Phu Lan, Nậm Lực, La Tương, Cha Ky. Cuộc bao vây đánh chiếm bản Đông của quân ta bắt đầu từ ngày 13-3, các chiến sĩ trẻ, phần lớn trưởng thành từ phong trào “Ba sẵn sàng”, trải qua thử thách ác liệt của chiến trường, tỏ ra hết sức vững vàng và có nhiều mưu trí sáng tạo trong cách đánh địch ở cứ điểm, cũng như đánh địch đến ứng cứu. Sau 5 ngày chiến đấu quyết liệt ta đã buộc địch rút chạy khỏi cứ điểm và đến ngày 20-3 địch hoàn toàn bị tiêu diệt, phá tan âm mưu của chúng hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn qua đường Hồ Chí Minh. Đường Hồ Chí Minh vẫn do ta làm chủ. Trong năm 1971 Bộ Tư lệnh 559 vẫn vừa đánh địch vừa vận chuyển hàng ra tiền tuyến đảm bảo từ 95 đến 100% kế hoạch. Riêng tháng 2-1971 đã vận chuyển được 13.608 tấn, đạt 91% kế hoạch.

Năm 1972, tiếp tục thế tiên công, quân và dân ta đẩy địch ngày càng lún sâu vào thế bị động phòng ngự, và từ cuối tháng 3, mở cuộc tiến công chiến lược đập nát một trong 3 tuyến phòng ngự kiên cố của địch ở đường số 9, giải phóng hoàn toàn 2 huyện Gio Linh và Cam Lộ, tiếp tục bao vây uy hiếp địch ở Đông Hà, ái Tử, La Vang, thị xã Quảng Trị, vây ép thành phố Huế dài ngày. Ngày 24-4 mở đợt tiến công quyết định số phận của địch ở các vị trí này. Tuổi trẻ và đồng bào ở 2 huyện Hải Lăng, Triệu Phong và dọc đường số 1 đã nổi dậy đồng loạt làm tan rã hệ thống kìm kẹp của địch.

Với lối đánh thọc sâu dũng mạnh, các chiến sĩ trẻ trên mặt trận Quảng Trị đã đập nát hệ thống phòng ngự mạnh nhất của địch ở ái Tử, La Vang, Tích Tường. Đinh Văn Hoè, đoàn viên ưu tú, trở thành ngọn cờ chiến đấu xuất sắc cùng đơn vị đánh địch suốt dọc đường 9, qua vùng đồng bằng Hải Đăng, tiến vào tuyến sông Mỹ Chánh. Một mình Hoè sử dụng thành thạo 6 loại súng của ta, 3 loại súng lấy được của địch, bắn gục 4 máy bay Mỹ, thiêu cháy xe bọc thép, bắt sống M113 của địch, Đinh Văn Hoè thường nói: “Được làm chiến sĩ thọc sâu là vui sướng nhất”. Anh đã bám địch là bám đến cùng, hễ ở đâu có địch là anh xốc tới. Noi gương Hoè, các chiến sĩ trẻ trong đơn vị do chính trị viên Đống chỉ huy đã chiến đấu quyết liệt không cho địch co cụm lại ở Tri Bưu, cản đường tiến của quân ta vào thị xã Quảng Trị. Quyết, Duy, rồi Sâm, Vi, Lộc…. những đoàn viên xông xáo, dũng mạnh như những mũi dao sắc nhọn đánh chiếm từng bờ tường trong một khu nhà 2 tầng cạnh nhà thờ Tri Bưu, quét sạch địch ra khỏi hang ổ, bắn cháy cả máy bay địch đến chi viện cho đồng bọn.

Đến ngày 2-5-1972 quân ta đã chọc thủng tuyến phòng thủ, đuổi địch về phía bờ nam sông Mỹ Chánh, giải phóng hoàn toàn Quảng Trị và 3 xã thuộc huyện Hương Điền, Thừa Thiên. Tháng 6-1972 tiếp tục truy kích địch ở phía Tây sông Mỹ Chánh và phía Nam sông Hương, tiếp tục vây ép thành phố Huế. Đến ngày 26-6 chiến dịch Trị Thiên hoàn toàn thắng lợi, ta tiêu diệt 24.070 tên địch, bắt sống 3.358 tên, phá huỷ 636 xe, bắn rơi 340 máy bay các loại, loại khỏi vòng chiến đấu sư đoàn bộ binh số 3 và đánh thiệt hại nặng sư đoàn lính thủy đánh bộ của địch.

Bị thua đau, bè lũ Mỹ-Ngụy liều lĩnh mở cuộc hành quân Lam Sơn 72, hòng giành lại những vùng đất đã mất. Chúng huy động tới 2 sư đoàn quân dự bị chiến lược và một lực lượng lớn quân biệt động ngụy cùng với trang bị mới vào trận, có không quân và hải quân Mỹ yểm trợ tới mức tối đa. Cuộc chiến đấu kéo dài suốt 82 ngày đêm làm cho quân địch ngày càng sa lầy trong thế thất bại. Một lực lượng lớn quân dự bị chiến lược bị giam chân và bị tiêu hao dần. Các chiến sĩ ta càng đánh càng tỏ ra ngoan cường. Trong đó nổi bật là cuộc chiến đấu của các chiến sĩ trẻ trong thành cổ Quảng Trị, được coi là bản anh hùng ca chói ngời chiến công. Trong những điều kiện chiến đấu cực kỳ ác liệt, trên trời máy bay B52 rải thảm, dưới đất pháo bầy, pháo chụp tới tấp dội bão lửa, các chiến sĩ trẻ đã bám từng ụ đất, từng  bờ thành, kiên cường chiến đấu, thể hiện phẩm chất cách mạng tuyệt vời của mình. Vũ Trung Thướng cùng đơn vị của anh đã trở thành niềm tin tưởng mãnh liệt cho đồng đội khi mỗi chiến sĩ ở đây dũng mãnh giữ một hướng tiến công, sử dụng thành thạo 6 loại vũ khí. Với tinh thần “mỗi chiến sĩ là một Lê Mã Lương”, từng chiến sĩ trên trận địa đã dám chọi với hàng trăm địch. Linh hồn của những trận chiến đấu ngoan cường ấy chính là người chính trị viên trẻ tuổi Vũ Trung Thướng và các chiến sĩ trẻ Tăng Bá Bình, Tạ Đình Giong, v.v… Nói về trận địa thép ấy, xã luận báo Quân đội Nhân dân đã viết: “Đơn vị Vũ Trung Thướng tiêu biểu cho tinh thần cách mạng tiến công của các chiến sĩ quân giải phóng trong thời kỳ chiến đấu mới”…

Cùng với trận địa Vũ Trung Thướng, trên nhiều hướng tiến công, các chiến sĩ trẻ trong các đơn vị đều tỏ rõ tinh thần kiên cường bám trụ đánh địch trong mọi tình huống. 25 chiến sĩ trẻ trong một ngày đánh lui 10 đợt phản kích của 2 tiểu đoàn địch. Các chiến sĩ trinh sát Hồng và Ba luồn sâu vào mục tiêu địch. Chiến sĩ thông tin Mai Ngọc Thoảng, giữ vững đường dây liên lạc dưới mưa bom bão đạn suốt 48 ngày đêm. Có những lần đường dây thông tin bị đánh đứt, dưới làn đạn địch, không kịp nối, anh dùng răng cắn chặt 2 đầu dây cho tín hiệu đi qua, kịp thời phục vụ chỉ huy chiến đấu.

Trong thế tiến công mạnh mẽ trên toàn chiến trường miền Nam, tuổi trẻ quân đội đã lập công xuất sắc, góp phần tiêu diệt những đơn vị chủ lực lớn của địch trong một thời gian ngắn. 8 trong số 13 sư đoàn của ngụy Sài Gòn đã bị loại khỏi vòng chiến đấu hoặc bị đánh thiệt hại nặng. Nhiều vùng đất đai rộng lớn được giải phóng, ở Quảng Trị, ở Đắc Tô, Bình Định, Bình Phước và xuất hiện nhiều vùng lõm khác.

*
*   *

Đứng trước tình hình vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, giữa năm 1972, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về những công tác trước mắt nhằm củng cố các vùng giải phóng và đề ra 4 nhiệm vụ cụ thể phải làm để đẩy mạnh phong trào cách mạng trong quần chúng.

Quán triệt quan điểm của Đảng về xây dựng cơ sở chính trị, kinh tế trong các vùng mới giải phóng, Đoàn ta đã nêu lên một trong 5 nội dung của phong trào “Năm xung phong” là “xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông hội”, và nhấn mạnh: “Phải xung phong đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp hơn nữa ở các vùng giải phóng để xây dựng một lượng dự trữ dồi dào cho kháng chiến, để đồng bào từ các vùng bị địch kìm kẹp trở về có đủ lương thực”. Để cụ thể hoá nhiệm vụ “xung phong sản xuất và thực hành tiết kiệm trong thanh niên nông thôn”, Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng đã ra các chỉ thị 05, 06, 07 thường xuyên chỉ đạo các cấp quan tâm động viên, tổ chức đoàn viên và thanh niên đẩy mạnh sản xuất trong mọi tình huống, ngay cả ở những vùng địch tiến hành gom bắt dân ác liệt. Bằng mọi hình thức đấu tranh chính trị và vũ trang khởi nghĩa, đoàn viên và thanh niên đã cùng bà con cô bác bung ra, trở về quê cũ làm ăn theo cách “lúc đầu bung ra gần, dần dần bung ra xa”. Nhiều nơi đoàn viên và thanh niên, với tinh thần “Năm xung phong” đã thật sự làm nòng cốt trong việc khai hoang phục hoá, và áp dụng một số biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến như thay giống lúa dài ngày bằng giống lúa ngắn ngày, bón phân, tưới tiêu hợp lý. Kẻ địch dùng kế mị dân, đưa nhiều biện pháp canh tác tiên tiến áp dụng vào đồng ruộng nhằm thâm canh tăng năng suất cây trồng. Đoàn viên và thanh niên nhiều địa phương đã biết lợi dụng cơ hội thuận lợi đi đầu sử dụng những giống lúa mới có năng suất cao đưa về áp dụng ở nông thôn và mạnh dạn vận dụng những biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến làm cho sản xuất ngày càng đạt quả cao. ở Mỹ Tho đoàn viên và thanh niên ở các cơ sở, nhất là những nơi bom đạn ác liệt, xung quanh các căn cứ địch đã lợi dụng các hình thức hợp pháp để tổ chức sản xuất. ở các vùng địch đánh phá có tính huỷ diệt, muốn biến thành đồng hoang nhà trống.. đoàn viên và thanh niên đều xung phong để sản xuất. Họ theo dõi chặt qui luật đánh phá của địch, tổ chức canh gác bảo vệ, để bám đồng ruộng gieo mạ, làm cỏ, bón phân. Có xã địch thường xuyên cho máy bay phá nương rẫy, cho biệt kích lén lút bắt cóc và bắn bừa bãi vào nhân dân, một số bà con không dám ra nương rẫy sản xuất. Đoàn viên và thanh niên đã cùng với lực lượng du kích tăng cường tuần tra canh gác, gương mẫu đi sản xuất trước để lôi kéo bà con. Nơi nào có đoàn viên, thanh niên đi làm thì nhân dân cùng đến làm. Xóm 4, một xóm rộng khoảng 5km2 thuộc vùng trọng điểm bình định của địch, thường xuyên bị địch bắn phá ác liệt. Số bom địch ném xuống gấp bốn, năm lần số dân. Nhưng nhờ có ruộng đất được chia và có đoàn viên và thanh niên đi đầu góp phần đẩy mạnh tăng gia sản xuất và chăn nuôi nên nhà nào cũng no đủ. Có nơi đoàn viên và thanh niên còn đi đầu trong việc tổ chức làm ăn tập thể trong các tổ vần công, đổi công: tổ chức làm những thí nghiệm thâm canh cây trồng, vật nuôi.

Phong trào “xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông hội” đặc biệt sôi nổi ở các vùng giải phóng. Với ý thức sản xuất thêm một hạt thóc là góp phần chống Mỹ, cứu nước, đoàn viên và thanh niên cùng bà con nông dân, mà số đông là chị em nữ thanh niên đã xung phong gánh vác mọi công việc đồng áng và quản lý gia đình để chồng, con em rảnh rang lên đường đi chiến đấu. Thanh niên đã tổ chức bám ruộng vườn vừa sản xuất, vừa chống giặc, đào hầm đào hào khắp trong thôn xóm và cả trên đồng ruộng để chiến đấu khi địch càn đến, để bảo vệ người và gia súc. Diện tích cày cấy ngày một tăng lên. Có các biện pháp kỹ thuật tiên tiến được thanh niên học tập đem về áp dụng và vận động bà con cùng làm nên năng suất lúa tăng lên rõ rệt.

Về chăn nuôi, số lợn, gà, vịt, ở nhiều nơi cũng đã tăng lên từ 2 đến 4 lần. Ngoài ra, được Mặt trận khuyến khích, giúp đỡ các ngành nghề khác như đánh cá, làm muối, nước mắm, lò rèn, v.v… được phát triển.

Các mặt y tế, giáo dục, văn hoá văn nghệ trong các vùng giải phóng được đoàn viên và thanh niên tích cực tham gia. Nhân kỷ niệm ngày thành lập Đoàn, nhiều tổ chức sơ sở Đoàn đã nhận những công trình mang tên 26-3, như xây dựng trường học, nhà trẻ, trạm y tế… Bộ mặt của nông thôn vùng giải phóng ngày càng mang dáng nét mới khác hẳn những “ấp tân sinh”, “ấp đời mới” ở giữa vùng Mỹ-Ngụy còn tạm kiểm soát.

Đoàn viên và thanh niên là lực lượng nòng cốt tham gia củng cố chính quyền cách mạng ở vùng mới giải phóng, xây dựng lực lượng vũ trang và an ninh địa phương. ở các tỉnh Mỹ Tho và Gò Công (nay là Tiền Giang) đã có hơn 8.000 thanh niên từ vùng gom dân của địch trở về vùng giải phóng và tích cực tham gia phong trào 4 quyết thắng do Đoàn phát động. Nhiều nơi trước kia đội du kích thiếu và yếu, qua những đợt hoạt động trong năm 1972, lực lượng được tăng cường, có khả năng độc lập tác chiến như các đội du kích ở Tân Hội, Mỹ Hạnh Đông,v.v… Riêng khu V, năm 1972 đã có 24.476 thanh niên tòng quân, gấp 4 lần năm 1969, gấp 5 lần năm 1970. Nhiều cán bộ Đoàn còn thâm nhập vào các “túi” thanh niên trốn lính ở toà thánh Tây Ninh, các thánh thất Cao Đài, các chùa Hoà Hảo, cù lao Đạo Dừa… để vận động thanh niên trở về. ở khu 9 năm 1972 đã vận động được 15.982 người bị địch bắt quay về tham gia công tác cách mạng và có 10.183 thanh niên tòng quân, trong đó có nhiều anh em ta vừa giành giật được từ tay địch.

*
*    *

Tranh thủ thời cơ, công tác giao thông vận tải thời gian này được đẩy mạnh. Nhiều tuyến đường được nâng cấp, đủ khả năng vận chuyển những phương tiện chiến đấu hiện đại vào chiến trường.

Từ giữa năm 1972, bị thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam nhưng Mỹ và bè lũ tay sai vẫn ngoan cố hy vọng gây sức ép với chúng ta ở Hội nghị Pari về Việt Nam. Chính vì  thế, Mỹ đã “Mỹ hoá” trở lại cuộc chiến tranh. Từ ngày 13-4-1972, chúng lại cho máy bay thả mìn, thủy lôi phong toả cảng Hải Phòng, đường sông, đường biển của ta, tiếp tục đánh phá lại các trọng điểm giao thông. Lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung) làm nhiệm vụ trên các tuyến đường phần lớn đã hoàn thành nhiệm vụ trên các tuyến đường phần lớn đã hoàn thành nhiệm vụ của nhiệm kỳ 2 (được thay quân từ nửa cuối 1968) sau một nhiệm kỳ 3 năm. Nhưng nhiệm vụ TNXP, một lần nữa lại được tăng cường để đảm bảo giao thông trong mọi tình huống. 34.058 đội viên TNXP, trong đó có 18.022 nữ, chiếm tỉ lệ 52,9% của 18 tỉnh, thành phố miền Bắc đã được gấp rút huy động. Trong đó có 4.500 đội viên TNXP của 3 tỉnh: Thanh Hoá, Hà Nam Ninh (nay là 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình) và Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ và Vĩnh Phúc) được Ban Bí thư Trung ương Đoàn quyết định thành lập một Tổng đội mới, Tổng đội 572, sang giúp đỡ nước bạn Lào làm nhiệm vụ mở con đường từ căn cứ kháng chiến của bạn đến biên giới Lào-Việt, nối với đường số 7 của ta, dài 64 kilômét.

3 năm làm nhiệm vụ trên đất bạn, TNXP Tổng đội 572 luôn nêu cao tinh thần “vì bạn, vì mình, vì tình đồng chí”, tổ chức nhiều chiến dịch hành động nhằm thi công dứt điểm từng hạng mục công trình. Nhiều công trình nhờ đó rút ngắn thời gian thi công tới 10 ngày. Đoàn thanh niên Tổng đội đã thường xuyên chỉ đạo đoàn viên và thanh niên đẩy mạnh phong trào lao động kiểu mẫu, phấn đấu giành năng suất cao, phát huy nhiều sáng kiến, cải tiến. Phần lớn đội viên TNXP đều chưa quen công việc làm đường, Tổng đội đã thực hiện phương châm vừa học vừa làm, đảm bảo đã ra mặt đường phải hiểu biết kỹ thuật, phải nắm được công việc, đồng thời bằng mọi cách nhanh chóng thực hiện cơ giới hoá. Nhiều đoàn viên như Chu Quốc Cầu đã tìm đến những nơi địch từng đánh phá thu nhặt phụ tùng, góp phần lắp ráp được 1 máy C100, một ĐT 54 và khôi phục được 30 xe ô tô. Có thêm phương tiện, đến cuối năm 1973, các công việc làm nền đường đã cơ giới hoá được 63%. Mặt đường và các công trình cầu, cống đến cuối năm 1974 đầu năm 1975 cũng được cơ giới hoá tới 70%.

Các đơn vị TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung) làm nhiệm vụ trên các tuyến đường huyết mạch luôn nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, tranh thủ thời cơ nâng cấp mặt đường, hoặc mở thêm đường mới. Tiêu biểu là các đội 301, 341, 57, 55… Năm 1972, đội 301 đạt bình quân 19,4% công xây lắp/tháng, năng suất lao động đạt 105%, làm lãi 110.370 đồng (thời giá năm 1972). Đội 99 thực hiện kế hoạch đạt 104%, lãi 10.000 đồng. Các đơn vị được giao làm nhiệm vụ bốc vác chuyển tải, kho tàng… hoạt động phân tán, không tổ chức hạch toán kinh tế, chỉ áp dụng hình thức nhận việc, nhận kế hoạch theo từng thời gian nhất định, vẫn luôn tìm tòi, cải tiến thao tác, đạt hiệu suất công tác cao. Các đội 39, 44, 149 làm nhiệm vụ phục vụ công tác quốc phòng luôn di động, phân tán nhiều nơi, vẫn giữ vững tinh thần thời chiến, khẩn trương và hăng say, tổ chức giao khoán nội bộ đạt hiệu quả tốt. Các ngành chủ quản nhận xét: “Đã giao việc cho TNXP là có thể tin tưởng!”

Các đội TNXP phục vụ ngành đường sắt, công việc đòi hỏi kỹ thuật cao, đã biết tổ chức hợp lý, vừa làm vừa học, nhanh chóng nắm bắt kỹ thuật tiên tiến, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống. Đội 81 luôn đạt năng suất từ 104- 129%. Đại hội 816 là đơn vị lá cờ đầu của toàn ngành, thường xuyên vượt năng suất 12%.

Công tác vận tải được đẩy mạnh. Nhiều lực lượng, nhiều phương tiện được huy động. Các đơn vị làm nhiệm vụ vận chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh trên biển đã tìm nhiều phương thức vận chuyển mới, tiếp tục trực tiếp đưa vũ khí vào chiến trường, mặc dầu kết quả rất hạn chế. Năm 1970, Đoàn 125 tổ chức 15 chuyến vận chuyển vũ khí cho chiến trường, chỉ có 5 chuyến vào được bến, 10 chuyến khác gặp địch phải quay lại. Đầu năm 1971 Đoàn tổ chức 4 chuyến đi xa bờ, song tất cả đều bị địch bám, phải quay trở lại.

Hai năm 1971-1972 là giai đoạn gian truân ác liệt của các chiến sĩ làm nhiệm vụ vận tải trên biển, thường xuyên phải chiến đấu với tàu địch và phải chịu nhiều tổn thất. Nhiều tàu phải phá hủy trước khi đến được mục tiêu, như tàu 645 do Thuyền trưởng  Lê Hà và Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu chỉ huy. Tàu 645 đã 2 lần nhổ neo, đều phải quay lại vì bị địch bám. Ngày 12 tháng 4 năm 1972 tàu lại ra khơi lần thứ 3. Khi tàu chuyển hướng vào bờ, cách Phú Quốc chừng 60 hải lý thì gặp tàu địch. Tàu 645 vừa cơ động ra xa vừa đánh trả địch quyết liệt. Khoảng 11 giờ ngày 23-4, một quả đạn lớn của địch trúng vào xích lái, tàu không còn điều khiển được. Nguyễn Văn Hiệu đề nghị Thuyền trưởng Lê Hà đưa anh em rời tàu, còn anh ở lại điểm hỏa huỷ tàu và anh dũng hi sinh.

Trận chiến đấu của tàu 645 đã kết thúc một phương thức, một giai đoạn vận chuyển oanh liệt của Đoàn 125 mười năm chi viện sức người và vũ khí cho chiến trường, để chuyển sang một phương thức vận chuyển mới, hoạt động công khai, chở vũ khí trên những con tàu đánh cá hợp pháp. Tháng 2 năm 1971, đã có 2 đội tàu sẵn sàng. Giữa tháng 3, một trong 2 đội tàu đó vượt biển ra Bắc an toàn. Ngày 21 tháng 7 năm 1971 Quân khu 9 đã thành lập đoàn vận tải bí mật, có mật hiệu S.950 (đến năm 1972 đổi tên là đoàn 371) thực hiện theo phương thức chuyển công khai với sự giúp đỡ, bổ trợ của Đoàn 125 trên nhiều mặt.

Trong thời gian từ 1971 đến 1972, Đoàn 125 có các tàu 525, 609, 646, 601… cùng đi làm nhiệm vụ với Đoàn 371. Các con tàu của Đoàn 125 đã dẫn dắt, hộ tống các chuyến đi của Đoàn 371 trong những vùng biển nguy hiểm, góp phần hoàn thành vận chuyển được 31 chuyến với 520 tấn vũ khí vào chiến trường khu 9.

Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường càng diễn ra ác liệt, công tác vận chuyển càng đòi hỏi bức bách. Đoàn viên và thanh niên ở các địa phương đã táo bạo tổ chức đưa vũ khí đạn dược và cả thuốc men, lương thực ra tận chiến hào bằng nhiều phương thức trong mọi tình huống. Thanh niên Mỹ Tho-Gò Công (thuộc quân khu 9) lợi dụng những khía cạnh hợp pháp trong qui chế đi lại của địch để tổ chức những tuyến vận chuyển giữa ban ngày trên quốc lộ 4 (ngày nay là quốc lộ 1). Vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men và cả thương binh đều được tập kết ở những điểm nhất định. Hàng ngày các đơn vị làm nhiệm vụ vận chuyển theo qui định đến các điểm hẹn nhận hàng và chuyển đi. Khi đi tất cả đều mặc áo trắng là dấu hiệu địch qui định hợp pháp khi đi lại trên đường. Với phương thức vận chuyển táo bạo đó, có thời gian đã phục vụ cả một trung đoàn quân giải phóng vẫn đảm bảo kịp yêu cầu chiến đấu. Nhiều vũ khí, đạn dược… trong đó có nhiều vũ khí, đạn dược được chuyển theo đường biển từ ngoài Bắc vào tập kết ở các bến thuộc vùng biển Gò Công được vận chuyển về căn cứ an toàn phục vụ cho những chiến dịch lớn.

*
*    *

Trước những thất bại hết sức nặng nề trên chiến trường miền Nam cũng như ở Lào và Campuchia, hòng cứu nguy cho ngụy quân, ngụy quyền từ tháng 4-1972 đế quốc Mỹ điên cuồng cho không quân đánh phá trở lại miền Bắc Việt Nam. Trường học, bệnh viện, nhà trẻ.. lại bị bom Mỹ tàn phá. Với tư thế “Ba sẵn sàng”, thanh niên công nhân một lần nữa lại sơ tán máy móc đến nơi an toàn, tiếp tục bám máy bám lò, tiếp tục tay búa, tay súng hiên ngang vừa sản xuất vừa đánh trả máy bay Mỹ. Thanh niên công nhân Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Thái, Hà Nội và khắp các xí nghiệp, công trường khác đã nêu tấm gương sáng ngời về tinh thần chiến đấu hy sinh vì chủ nghĩa xã hội, vì miền Nam ruột thịt. Thanh niên công nhân vùng mỏ hiểu rõ “trong chiến đấu Tổ quốc cần than hơn bao giờ hết” đã thường xuyên bám hầm lò, phấn đấu thực hiện đi lò nhanh. Tuổi trẻ Hải Phòng bình tĩnh, gan dạ vượt qua lưới lửa phong toả của địch giữ vững sản xuất trong mọi tình huống. Trên các cầu cảng đoàn viên trong lực lượng tự vệ của cảng như Lâm Thị Chỉ, Nguyễn Văn Chiến, Đậu Ngọc Xuân… dũng cảm chiến đấu đánh trả máy bay địch, bảo vệ cảng, bảo vệ hàng.

Những ngày cuối tháng 12 năm 1972 đế quốc Mỹ điên cuồng cho máy bay B52 rải thảm xuống nhiều khu vực đông dân ở Thủ đô Hà Nội. Bệnh viện Bạch Mai bị trúng bom. Khu phố Khâm Thiên bị B52 rải thảm. Đồng ruộng Uy Nỗ (Đông Anh) bị bom Mỹ cày xới… Thanh niên Hà Nội đã ngẩng cao đầu. Một nữ dân quân ngoại thành khi nghe tin gia đình có người bị bom Mỹ sát hại, đang trực chiến, đã không rời trận địa. Cô nói với đồng đội đầy cương nghị: “Không được để nước mắt làm nhòa mặt kẻ thù”.

Cả Hà Nội hiên ngang làm nên một Điện Biên Phủ trên không, trở thành Thủ đô của lương tâm và phẩm giá con người. Trong 12 ngày đêm, Hà Nội đã nêu một kỷ lục về diệt máy bay: bắn rơi 81 chiếc, trong đó có 34 chiếc máy bay chiến lược B52 và 5 máy bay cánh cụp cánh xoè F111. Tự vệ nhà máy xay, với đơn vị thanh niên tự vệ trang bị súng 12,7 ly, cảnh giác cao đã hạ cánh cụp cánh xoè tại chỗ.

Cả Hà Nội vào trận, tầng thấp, tầng cao, lưới lửa chăng dày đón đánh địch từ mọi hướng, mọi tầm. Trên các trận địa tên lửa, trên các sân bay dã chiến, nhiều chiến sĩ trẻ lần đầu giáp trận với siêu pháo đài bay B52 đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nổ súng kịp thời tiêu diệt địch. Trắc thủ tính toán Dương Nhật Thăng, vốn là sinh viên Trường Đại học Ngoại giao nhập ngũ chưa bao lâu được chuyển về phân đội 9 bộ đội tên lửa đã đánh địch liên tục mấy trận liền, không để một lần sai sót. Sĩ quan điều khiển Nguyễn Đình Kiên, 3 đêm thức trắng, vẫn tỏ ra tỉnh táo khi bắt gặp mục tiêu B52. Anh đã cùng với các trắc thủ cự ly Mè Văn Thi, trắc thủ phương vị Nguyễn Xuân Đài, trắc thủ góc tà Ngô Văn Lịch và các đoàn viên Lê Anh Chiến, Đỗ Xuân Thanh, Nguyễn Văn Vọng,v.v… hiệp đồng chặt chẽ, bắn rơi máy bay B52 khi chúng xâm phạm vùng trời Hà Nội. Phi công Phạm Tuân, người sau này trở thành phi công vũ trụ đầu tiên của Việt Nam trong chuyến bay hợp tác Xô-Việt, bằng máy bay chiến đấu Míc đã bắn hạ máy bay chiến lược B52 của Mỹ, đem lại vinh quang và niềm tự hào chính đáng cho những phi công trẻ tuổi Việt Nam.

Trong 12 ngày đêm Hà Nội hiên ngang đối đầu với siêu pháo đài bay B52, tuổi trẻ Hà Nội không chỉ chiến thắng từ trên những tầm cao hoả lực. Từ mỗi góc phố, mỗi cơ quan, xí nghiệp, công trường… tuổi trẻ Hà Nội đã luôn tỏ rõ khí thế lẫm liệt của thế hệ thanh niên “Ba sẵn sàng” từng được thử thách dày dạn.

Đoàn viên và thanh niên Nhà máy Điện Yên Phụ một lần nữa lại tình nguyện làm người cảm tử bảo vệ dòng điện. Đội thanh niên cảm tử gồm 70 đoàn viên và thanh niên được thành lập với lời thề dưới cờ Tổ quốc và cờ Đảng: “Xin dâng trọn tuổi Đoàn để bảo vệ dòng điện của Thủ đô!”

Trong suốt 12 ngày đêm chiến đấu quyết liệt đánh trả liên tiếp mấy chục đợt tấn công điên cuồng của máy bay Mỹ, dòng điện từ Nhà máy Điện Yên Phụ vẫn liên tục phát sáng. Mỹ dùng cả bom lade đánh vào nhà máy. Các chiến sĩ trong đội cảm tử bảo vệ dòng điện lấy máu mình viết lên khẩu hiệu để phấn đấu làm theo: “Tim có thể ngừng đập, nhưng dòng điện không thể nào tắt!”. Đặng Đức Thọ, Vũ Xuân Hoà, 2 đoàn viên trong đội cảm tử đang làm nhiệm vụ vận hành máy, máy bay Mỹ đến đánh phá, các anh vẫn không chịu rời vị trí. Cuối cùng cả 2 anh đều hy sinh, nhưng dòng điện của Thủ đô vẫn sáng.

Chiến công vẻ vang của đoàn viên, thanh niên và quân dân Hà Nội hoà cùng chiến công chung của quân và dân cả nước đã buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari, công nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam thống nhất. Cuộc chiến đấu của quân và dân ta bước vào một thời kỳ mới, đầy thử thách cam go và giành thắng lợi quyết định.

*
*    *

Hiệp định Pari về Việt Nam được ký kết (1-1973), đế quốc Mỹ buộc phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ: cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, chấm dứt sự dính líu quân sự và can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam. Nhưng với bản chất hiếu chiến và xâm lược, đế quốc Mỹ vẫn không chịu từ bỏ chính sách cơ bản của chúng ở Việt Nam là thực hiện “học thuyết Níchxơn”, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài nước ta. Trước khi rút quân, đế quốc Mỹ đã đưa thêm vào miền Nam nước ta 700 máy bay các loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép các loại, nhiều tàu chiến và tăng dự trữ vật tư chiến tranh lên mức cao nhất, tới gần 2 triệu tấn. Sau khi rút quân, đế quốc Mỹ còn duy trì một lực lượng mà chúng gọi là “lực lượng răn đe” ở Đông Nam á gồm không quân, hải quân, hàng loạt nhân viên quân sự Mỹ đội lốt dân sự được để lại ở miền Nam nước ta.

Được đế quốc Mỹ hà hơi tiếp sức, Hiệp định Pari vừa ký chưa ráo mực, Nguyễn Văn Thiệu đã hò hét “tràn ngập lãnh thổ”, tập trung lực lượng thực hiện các “kế hoạch bình định 3 năm 1973-1975”, “kế hoạch bình định 6 tháng”, “kế hoạch quân sự Lý Thường Kiệt”, “Kế hoạch xây dựng quân đội 1974-1979”, v.v… Riêng trong năm 1973 Mỹ-Thiệu đã tổ chức vây bắt 240.000 thanh niên đưa vào các sắc lính, thực hiện đôn quân một cách trắng trợn, và đến cuối năm, lực lượng quân ngụy đã lên tới trên 700.000 tên, cộng với 1.500.000 tên trong lực lượng địa phương, bảo an, phòng vệ dân sự có vũ trang. Chúng hò hét “bắn bỏ” tất cả những ai đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pari, đòi dân sinh, dân chủ. Hàng vạn người yêu nước, mong muốn hoà bình bị chúng bắt vào tù sau ngày Hiệp định Pari được ký kết, chưa kể số 200.000 tù chính trị và 15.000 tù quân sự bị chúng giam giữ trái phép không chịu trao cho Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam như hiệp định đã quy định.

Với thủ đoạn nham hiểm không cho đối phương kịp trở tay, khi các đại biểu của Mỹ-Thiệu vừa bước ra khỏi phòng họp ở phố Klê-be (Pari) thì ở miền Nam chúng tung ra một lực lượng đánh phá điên cuồng các căn cứ “lõm” của ta trong vùng chúng kiểm soát, lấn chiếm các vùng đã được giải phóng trước ký hiệp định. Chỉ trong 11 tháng của năm 1973, địch đã sử dụng 60% quân chủ lực và toàn bộ lực lượng vũ trang địa phương, mở trên 360.000 cuộc hành quân lớn, nhỏ lấn chiếm và tiến công với lực lượng lớn vào các vùng giải phóng của ta như Sa Huỳnh, Bắc Kon-Tum, Chư Nghé, Kiên Đức, Quảng Đức, Nam Bắc lộ 4 ở Mỹ Tho, Chương Thiện, Núi Dài, Tri Tôn,v.v… Mọi hành động đánh phá điên cuồng của chúng đều nhằm xoá bỏ trạng thái hai vùng, hai quân đội, hai chính quyền, biến miền Nam thành một vùng do chúng tự do kiểm soát, tự do kìm kẹp.

Nhận rõ bản chất của kẻ địch, BCH Trung ương Đảng (khoá III) trong Hội nghị lần thứ 21, tháng 10 năm 1973, đã chỉ ra rằng: “Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Phát triển thực lực của cách mạng, là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong giai đoạn mới”.

Theo lời kêu gọi của Đảng, ý thức đầy đủ trách nhiệm của thế hệ trẻ trước vận mệnh của Tổ quốc, hàng triệu đoàn viên và thanh niên trong cả nước đã tham gia đợt sinh hoạt chính trị về tình hình và nhiệm vụ, đồng thời siết chặt hàng ngũ thực hiện sứ mệnh lịch sử là đội quân xung kích cách mạng trên mọi trận tuyến, chiến đấu và xây dựng, cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân bước vào giai đoạn chuẩn bị với qui mô chưa từng có, nhằm đưa sự nghiệp cách mạng lâu dài và gian khổ của nhân dân ta đến thắng lợi quyết định.

Trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, phong trào lao động sản xuất, nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, chi viện cho tiền tuyến lớn được đẩy mạnh. Đoàn viên và thanh niên ở hầu khắp các cơ sở đều sôi nổi thi đua hoàn thành vượt mức kế hoạch. Thành Đoàn Hà Nội phát động rộng rãi phong trào “lao động tình nguyện”. Tổng đội “Thanh niên tình nguyện xây dựng Thủ đô” được thành lập đảm nhận nhiều công trình, phần việc khó khăn nhằm khôi phục lại những công trình bị địch đánh phá hư hỏng. Thanh niên trong các cơ sở sản xuất thực hiện ngày giờ công cao, đăng ký phấn đấu tăng năng suất, hoàn thành vượt mức kế hoạch, xây dựng phong cách lao động mới. Nhiều công trình thanh niên, lò, máy, xe thanh niên, tổ sản xuất thanh niên, quầy hàng thanh niên… được triển khai, thu hút đông đảo đoàn viên và thanh niên tham gia. Cung Đình Phú và nhiều đoàn viên và thanh niên  khác ở Nhà máy Cơ khí Hà Nội (nay là Nhà máy Công cụ số 1), thường xuyên phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất đã hoàn thành kế hoạch năm trước thời gian 120 ngày. Thi đua với Cung Đình Phú, năm 1974 riêng ở Hà Nội đã có hơn sáu ngàn đoàn viên và thanh niên hoàn thành kế hoạch được giao trước thời hạn từ 15 ngày đến 6 tháng.

Đánh giá cao những cống hiến xuất sắc của tuổi trẻ, tháng 6 năm 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn đã tổ chức Đại hội tổng kết phong trào “Ba sẵn sàng” toàn miền Bắc. Đại hội đã qui tụ hàng trăm bông hoa tiêu biểu cho hàng vạn tập thể và cá nhân từng lập nên những sự tích kỳ diệu trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của toàn dân, như Nguyễn Trí Ân, Hồ Thị Thu Hiền, Ngô Thị Sửu… Trong báo cáo tổng kết phong trào, đồng chí Vũ Quang, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn đã rút ra những bài học sinh động về nghệ thuật phát động, chỉ đạo phong trào, vai trò của tổ chức Đoàn đối với một phong trào quần chúng rộng lớn diễn ra trong một thời gian dài, trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống chiến đấu, sản xuất, học tập và rèn luyện.

Đại hội vinh dự được Chủ tịch Tôn Đức Thắng đến dự và đánh giá cao phong trào cách mạng của tuổi trẻ. Bác Tôn nói: “Trong những năm chống Mỹ, cứu nước, phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên miền Bắc, cùng với phong trào “Năm xung phong” của thanh niên miền Nam đã góp phần to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta… Nhiều tấm gương anh dũng tuyệt vời của thanh niên ta cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, mãi mãi sáng ngời để cho mọi người noi theo”.

Nói chuyện với Đại hội, đồng chí Trường Chinh, ủy viên Bộ Chính trị, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đã khẳng định: “Một trong những thành quả to lớn của cao trào chống Mỹ, cứu nước là đào tạo thanh niên “Ba sẵn sàng” thành lớp người kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp vĩ đại của Đảng ta và của Hồ Chủ tịch, góp phần thực hiện lời căn dặn thiết tha của Người: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Đồng chí đánh giá: “Phong trào “Ba sẵn sàng” thật sự là một phong trào cách mạng rộng lớn của quần chúng thanh niên, là chiến trường lập công của tuổi trẻ, là trường học bồi dưỡng một thế hệ thanh niên anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng”.

Đồng chí Trường Chinh, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng trao tặng thanh niên lá cờ mang dòng chữ: “Thanh niên hăng hái tiến lên hàng đầu trong chiến đấu, lao động, học tập và xây dựng cuộc sống mới”.

Ban Chấp hành Trung ương Đoàn coi đó là khẩu hiệu hành động của tuổi trẻ trong giai đoạn cách mạng mới. Tháng 2-1974, để kịp thời chỉ đạo phong trào hành động cách mạng của thanh niên, trong khi chưa có điều kiện tổ chức Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn quyết định triệu tập Hội nghị đại biểu Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh. Kể từ Đại hội lần thứ III (1961) đến Hội nghị đại biểu lần này vừa tròn 13 năm. Nhiều sự kiện đã diễn ra và Đoàn ta đã có những đóng góp xứng đáng. Hội nghị đại biểu của Đoàn đã khẳng định nhiệm vụ trong giai đoạn mới: “Giáo dục, động viên, tổ chức và phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong phong trào lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, trong học tập và xây dựng cuộc sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa”.

Hội nghị đã tiến hành bầu bổ sung một số đồng chí vào Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và Ban Bí thư Trung ương Đoàn theo tinh thần từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ Đoàn như Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn (Khoá III) đã đề ra.

Trước đó, tháng 7-1973, Đại hội Đại biểu Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng lần thứ II đã được tiến hành tại vùng căn cứ Tây Ninh. Tại Đại hội, Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam đã trao cho tổ chức Đoàn, tổ chức Đội và phong trào của tuổi trẻ 2 lá cờ thêu dòng chữ: “Thế hệ anh hùng, thắng Mỹ vẻ vang, thanh niên anh hùng tiến lên” và “Phát huy truyền thống dân tộc anh hùng, tiếp tục sự nghiệp Bác Hồ vĩ đại, thiếu niên hãy sẵn sàng”. Đại hội đã tập trung trí tuệ đánh giá công tác tổ chức chỉ đạo phong trào “Năm xung phong” trong toàn miền và quyết định phát động phong trào “Ba xung phong giành giữ hoà bình”, bao gồm:

- Xung phong đấu tranh chính trị.
- Xung phong tham gia xây dựng lực lượng vũ trang.
- Xung phong xây dựng vùng giải phóng và căn cứ địa cách mạng.

Đồng chí Phan Minh Tánh được bầu làm Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đoàn.

Dưới ánh sáng Nghị quyết hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (họp tháng 10-1973), Ban Thường vụ Trung ương Đoàn TNND cách mạng đã họp và ra nghị quyết động viên đoàn viên và thanh niên tiến lên hàng đầu trong cuộc chiến đấu của toàn dân, đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, giữ vững và phát huy thế chủ động chiến lược, làm chuyển biến cục diện chiến trường.

Từ đầu năm 1974, cùng với việc phản công làm thất bại kế hoạch “bình định”, “tràn ngập lãnh thổ” của địch, mở rộng thêm nhiều vùng giải phóng, đặc biệt giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, dồn địch vào thế bị động, lúng túng… hàng chục vạn đoàn viên và thanh niên đã hăng hái gia nhập quân đội góp phần nhanh chóng xây dựng các binh đoàn chủ lực có đủ các binh chủng kỹ thuật, là bước trưởng thành mới của quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi của cuộc chiến đấu trong giai đoạn mới. Pháo cơ giới tầm xa, tên lửa và những xe tăng loại tốt lần đầu tiên có mặt trên các chiến trường Nam Bộ.

Công việc chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược ngày càng hết sức khẩn trương. Với quyết tâm “tranh thủ từng giờ mở thêm đường mới”, 35.000 đoàn viên và thanh niên trong lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước (Nhiệm kỳ 3) cùng với các chiến sĩ binh đoàn Trường Sơn đã lao động quên mình mở thêm hàng ngàn kilômét đường. Con đường chiến lược Đông Trường Sơn được mở ra những năm trước được nâng cấp, nối liền đường 9 Quảng Trị vào đến miền Đông Nam Bộ. Đến đầu năm 1975 tổng số chiều dài đường chiến lược và chiến dịch lên tới trên 20.000 km. Chiến công mở đường của tuổi trẻ đã được BCH Trung ương Đảng khen ngợi.

Dọc theo đường chiến lược Đông Trường Sơn còn có hệ thống 5.000 km đường ống dẫn dầu kéo dài từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, đủ sức tiếp tế xăng dầu cho hàng chục nghìn xe các loại vào ra trên đường. Các chiến sĩ thông tin trẻ tuổi cũng góp phần to lớn kéo dài đường dây thông tin hữu tuyến từ Hà Nội tới Lộc Ninh đảm bảo trong bất kỳ tình huống nào cũng có thể truyền đạt được chỉ thị của Trung ương đến mọi chiến trường.

Ở các địa phương trên chiến trường miền Nam tình hình có những chuyển biến mau lẹ. Nhiều cuộc đấu tranh của thanh niên học sinh, sinh viên nổ ra thu hút nhiều tầng lớp nhân dân cùng tham gia. Ngày 16-3-1974 hàng ngàn học sinh, sinh viên cùng lực lượng trí thức, nhân sĩ, tôn giáo bất ngờ tập trung tại chợ Bến Thành, rải truyền đơn đòi trả tự do cho sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm và tù chính trị đang bị giam giữ. Ngày 25-8-1974 các tầng lớp thanh niên Sài Gòn lại tổ chức tưởng niệm nữ sinh Quách Thị Trang, thu hút cả nhiều dân biểu và trí thức cùng tham dự, sau đó tuần hành qua các phố lớn. Ngày lễ Nôen, 24-12-1974, 11.000 sinh viên công giáo tập hợp trong “ủy ban hành động cho công bằng xã hội” tổ chức mít tinh tại nhà thờ dòng Chúa cứu thế và nhà thờ Vườn Xoài, chống bắt sinh viên đi lính.

Nhiều vùng giải phóng được mở rộng. ở những nơi này đã xuất hiện lực lượng “thanh niên bảo vệ vùng giải phóng” được trang bị vũ khí vừa làm nhiệm vụ đánh địch vừa đảm bảo an ninh trật tự cho nhân dân. Tổ chức Đoàn ở nhiều địa phương được củng cố và phát triển. ở Nam Bộ đến tháng 12-1974 chỉ còn từ 18-20% ấp “trắng” chưa có đoàn viên (2.000 ấp trong tổng số 11.000 ấp). Tây Nam Bộ có 2.025 ấp thì 1.490 ấp có tổ chức Đoàn, chiếm 73%. Trung Nam Bộ, trong 479 xã, có 276 xã có tổ chức Đoàn xã, 96 xã có chi đoàn và đoàn viên, 107 xã còn “trắng” cơ sở Đoàn. Đợt phát triển đoàn viên nhân ngày Đoàn được mang tên Bác Hồ, Nam Bộ có thêm 10.000 đoàn viên mới (không kể số đoàn viên trong lực lượng vũ trang), nâng tổng số đoàn viên năm 1974 lên 42.000.

Các cơ sở Đoàn có nhiều hoạt động thiết thực chuẩn bị đón nhận thời cơ chiến lược. Đáng chú ý là phong trào tòng quân, đi dân công phục vụ chiến trường diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương. Cuối năm 1973, riêng Củ Chi đã có trên 3.000 thanh niên tòng quân. ở Mỹ Tho- Gò Công, những ngày cao điểm có từ 3.000 đến 5.000 lượt thanh niên tham gia phục vụ chiến đấu. Riêng tháng 4-1975, có trên 40.000 lượt thanh niên trong tỉnh đi dân công phục vụ trên các mặt trận.

Ở nhiều nơi, phòng vệ dân sự của địch hầu hết bị rã, chỉ còn lại vùng yếu, thị xã, thị trấn, song thường xuyên cũng bị đánh phá , hiệu lực hoạt động không đáng kể, kể cả lực lượng phòng vệ xung kích. Lợi dụng tình hình kẻ địch đang hoang mang ta bố trí một số thanh niên nòng cốt và đoàn viên vào trong tổ chức phòng vệ của chúng chờ thời cơ hành động. Thị Đoàn Cai Lậy đã đưa được 15 đoàn viên vào tổ chức phòng vệ dân sự của địch. Chính lực lượng này trong dịp 30 tháng 4 năm 1975 đã tước súng và giải tán trên 100 phòng vệ dân sự, thu gần 70 súng, khi lực lượng ta chưa kịp vào tiếp quản thị trấn.

*
*   *

Nắm vững thời cơ, thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng, 2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, các chiến sĩ ta đã nổ súng đánh chiếm Buôn Ma Thuột, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Nhiều chiến sĩ trẻ lần đầu ra trận đã ngoan cường cùng đồng đội đánh chiếm từng mục tiêu, chặn đánh từng đoàn xe địch. Bằng 2 phát đạn B40 chiến sĩ trẻ Triệu Kim Thành đã bắn cháy 2 xe M113. Các chiến sĩ trẻ Thắng, Hoà, Nguyên cũng dùng súng M72 lấy được của địch, bắn gục từng chiếc M113 đi đầu. Bọn địch hoang mang bỏ chạy. Trận địa được giữ vững.

Ngay từ giờ phút đầu của cuộc tiến công, đồng bào thị xã Buôn Ma Thuột, đặc biệt là anh chị em thanh niên các dân tộc, được sự hướng dẫn của các cơ sở cách mạng, đã nổi dậy giành quyền làm chủ, giúp sức đắc lực bộ đội truy quét địch, tiếp đạn, tải thương, phát hiện kho tàng và nơi ẩn náu của địch. Nhiều tổ thanh niên vũ trang đã phối hợp cùng bộ đội truy kích, gọi hàng hàng trăm tên giặc, bắt hàng chục tên ác ôn đầu sỏ.

Cùng với đòn tiến công chiến lược ở Buôn Ma Thuộc, thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, các lực lượng vũ trang của ta tích cực bao vây Plâycu, tháo chạy khỏi Tây Nguyên. Quyết tâm không cho chúng chạy thoát, các chiến sĩ ta động viên nhau: “Đi nhanh cho đến, đánh nhanh cho thắng”. Phối hợp chặn đánh địch còn có những người con của núi rừng Tây Nguyên, như đội du kích của anh hùng Pui Thu, từng diệt xe bọc thép địch trên đường, bắn rơi máy bay, giải phóng một lúc 13 ấp. Và Y Len, một cô gái người dân tộc 19 tuổi, chỉ huy một đại đội vận tải, trong điều kiện nào cũng có mặt cõng trên vai hàng trăm kilôgam hàng. Trước khi đi chiến đấu, Y Len được mẹ trao cho một chiếc gùi và một ống nứa trong có đựng hình Bác Hồ, kỷ niệm của người cha thân yêu để lại. Y Len luôn mang theo hình ảnh Bác Hồ bên mình khi đi làm nhiệm vụ, với một tâm niệm: “Đi cách mạng để đền ơn Bác Hồ”.

Bằng một cố gắng phi thường, thanh niên cùng quân và dân ta đã chốt chặt con đường tháo chạy của địch và đã tạo ra bước ngoặt của cuộc chiến.

Khi mặt trận Tây Nguyên nổ súng thì ở Trị-Thiên-Huế và Quảng Nam-Đà Nẵng nhiều hoạt động phối hợp cũng được mở ra. Các chiến sĩ trong các đơn vị bộ đội địa phương, cùng với hơn 100 đội công tác vũ trang được tuyển chọn trong những cán bộ, đoàn viên, thanh niên ưu tú, đã thọc xuống các vùng sâu, vừa chuẩn bị chiến trường, vừa mở cuộc tiến công từ trong lòng địch, làm cho địch rất hoang mang. Ngày 19-3-1975, chính các lực lượng vũ trang địa phương và các đội vũ trang công tác này đã đón đúng thời cơ, táo bạo tổ chức cuộc tiến công giải phóng thị xã Quảng Trị, và sau đó giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị.

Tuổi trẻ thành phố Huế dưới sự lãnh đạo trực tiếp của thành ủy, đã khẩn trương chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Nhiều mũi công tác đã luồn sâu vào các khu dân cư phát động quần chúng. Nhiều đơn vị tự vệ thanh niên, sinh viên, học sinh giải phóng đã được cấp tốc thành lập. Đúng vào ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng, đoàn công tác xã hội nữ sinh viên liên khoa Huế (một tổ chức hợp pháp được thành lập từ năm 1973) đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở sân trường đại học sư phạm, với lời kêu gọi thiết tha: “Thành phố này mãi mãi là của chúng ta!”. Cùng thời gian đó, theo lệnh của thành ủy, một đơn vị tự vệ của sinh viên bí mật đến chốt tại trụ sở “sinh viên vụ” số 15 Phan Đình Phùng, và sau đó, 3 tổ tự vệ khác đến chốt ở 3 ngôi nhà cao tầng để giữ 3 cây cầu bắc qua sông An Cựu. Khi bộ đội chủ lực chọc thủng tuyến phòng thủ Mỹ Chánh, đập nát tuyến phòng thủ Phú Bài, cắt đứt đường bộ và đường biển ở cửa Thuận An, nhiều tổ tự vệ thuộc các đơn vị của Thành Đoàn Huế đã cải trang mặc áo lính ngụy, mang súng M16 bắt đầu xuất hiện kiểm soát những nơi xung yếu trong thành phố, chờ thời cơ phối hợp với bộ đội chủ lực nổi dậy đánh chiếm thành phố.

Thường vụ thành ủy Huế chỉ thị cho Thành Đoàn thanh niên triển khai toàn bộ lực lượng cùng nhân dân chuẩn bị sẵn sàng. Thành Đoàn phát lời kêu gọi các binh sĩ trẻ trong quân đội ngụy: “Con đường thoát của các bạn không phải là Đà Nẵng hay Sài Gòn mà là con đường về với đồng bào và cách mạng. Hãy nhận rõ thời cơ ngàn năm có một quay súng lập công chuộc tội!”. Truyền đơn được in ngay, tung vào những nơi có đông binh sĩ ngụy tụ tập.

Cuộc chiến đấu giải phóng thành phố Huế đặc biệt diễn ra ác liệt ở sân bay Đồng Tâm. Bọn địch ngoan cố co cụm lại chống cự. Từ 3 hướng, xe tăng cùng bộ binh quân giải phóng áp sát. Vũ Văn Mai dẫn đầu mũi tiến công của phân đội 1, cho xe mình vọt lên, gặp một cụm xe tăng M48 của địch án ngự, Mai ra lệnh dùng đạn xuyên tiêu diệt ngay một chiếc. Hầu như cùng lúc xe tăng ta đều nhả đạn,4 xe địch bốc cháy. Thi đua với các chiến sĩ xe tăng, một mũi đột kích của bộ binh, toàn các chiến sĩ trẻ, đã diệt gọn một tốp xe tăng địch khi chúng tìm đường tháo chạy.

Trong khi ở quân khu 5 nhận được chỉ thị của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng đã đồng loạt mở cuộc tấn công về hướng Bắc nhằm mục tiêu giải phóng Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai ở miền Nam mà quân địch đang co cụm cố sức chống đỡ.

Phối hợp với các cánh quân từ ngoài đánh vào, Đảng bộ Quảng Nam-Đà Nẵng đã khẩn trương chuẩn bị tổ chức lực lượng nổi dậy. Hàng trăm cán bộ, đoàn viên thanh niên đã được bố trí luồn sâu vào sau lưng địch, móc nối với lực lượng bí mật tại chỗ trong thành phố, đặc biệt là các cơ sở thanh niên trong các trường học, xưởng máy. ở nhà máy điện Liên Trì, thanh niên đã cùng với các công nhân lớn tuổi tổ chức thành đội ngũ, làm việc liên tục 12 giờ một ngày, với khẩu hiệu: “bám nhà máy duy trì sản xuất phục vụ nhân dân, đón chờ cách mạng”. Nhiều đơn vị tự vệ đã được bí mật thành lập, trang bị ngay bằng các vũ khí lấy được của địch.

Để làm tan rã tinh thần binh lính địch đang hoang mang cực độ, nhất là bọn tàn binh từ Huế, Quảng Trị và các nơi khác chạy về, đoàn viên và thanh niên ở các cơ sở đã tổ chức thành nhiều nhóm công tác, đi tuyên truyền, kêu gọi lính ngụy bỏ ngũ về nhà. 3.200 lính mới ở căn cứ Hoà Cầm, đã nổi dậy đấu tranh quyết liệt với bọn chỉ huy, phá bỏ căn cứ, chạy sang hàng ngũ cách mạng. Khi những quả đạn pháo lớn của quân giải phóng nã vào sân bay Đà Nẵng, căn cứ Hoà Khánh, nơi đóng Bộ tư lệnh quân đoàn 3 ngụy, cảng Sơn Trà… hàng ngàn người bị địch bắt giam ở nhà lao Non Nước đã nổi dậy diệt ác, phá nhà lao.

Ngày 26-3-1975, sư đoàn 2, quân khu V, do Anh hùng Nguyễn Chơn chỉ huy, chọc một mũi sắc nhọn giải phóng Tiên Phước, Phước Lâm rồi Tam Kỳ và tiến đánh vào phía Nam thành phố Đà Nẵng. Ngày hôm sau từ phía Bắc, đoàn Thành Nam vừa góp phần tiêu diệt địch ở quận lỵ Phú Lộc, đã nhanh chóng vượt qua đèo Hải Vân, diệt căn cứ chốt chặn của địch ở Lăng Cô, sau đó phối hợp với một đơn vị xe tăng tiến vào từng hốc đá dọc bán đảo ngoan cố chống lại bộ binh và xe tăng của ta. Một tổ chiến đấu của đại đội 3 đoàn Ba Gia do Hoàng Xuân Công dẫn đầu đã xông ra giữa cầu Trịnh Minh Thế, lợi dụng từng thanh dầm đánh trả địch. Công bị đạn địch xuyên thủng bàn tay. Anh tự băng bó lấy và tiếp tục áp sát địch. Cùng lúc xe tăng ta vượt qua cầu. Bọn địch hốt hoảng xô nhau chạy. Cả bọn nhân viên kỹ thuật trên các trạm rađa của không quân và hải quân ngụy trên đỉnh núi Sơn Trà đang điều khiển máy bay lên xuống cũng hốt hoảng bỏ cả hồ sơ, tài liệu chạy tháo thân.

Sau 30 giờ chiến đấu quyết liệt, kể từ lúc mở cuộc tiến công vào thành phố, các lực lượng vũ trang giải phóng đã cùng thanh niên và nhân dân Đà Nẵng tiêu diệt và làm tan rã 100.000 quân ngụy, giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng - một căn cứ liên hợp mạnh của địch.

*
*   *

Ngày 25-3-1975, sau những chiến thắng dồn dập của quân và dân ta, tại Thủ đô Hà Nội, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp phiên lịch sử, khẳng định “thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam”. Bộ Chính trị chủ trương tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả 2 miền Nam - Bắc quyết biến quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng thành hiện thực, giành thắng lợi cuối cùng. Hàng chục vạn đoàn viên và thanh niên, kể cả những thanh niên ở vùng mới giải phóng, xung phong gia nhập quân đội, góp phần xây dựng những đơn vị mới, kịp thời bổ sung cho chiến trường.

Các tỉnh ở hậu phương lớn miền Bắc phần lớn đều được giao chỉ tiêu tuyển quân gấp 2 lần những năm trước. Nhưng ngay trong đợt giao quân đầu năm tất cả các tỉnh đều hoàn thành chỉ tiêu giao quân cả năm. Nhiều thanh niên học sinh ở Hà Nội và ở nhiều địa phương khác đã tạm ngừng việc học tập để kịp lên đường chiến đấu.

Ở Tây Ninh, tất cả thanh niên khối cơ quan, đoàn thể tỉnh, huyện đều tình nguyện gia nhập lực lượng vũ trang. Chỉ trong 20 ngày, từ 4-4 đến 24-4-1975 đã có trên 3.000 thanh niên nhập ngũ, biên chế thành 9 tiểu đoàn mới (trong đó có 2 đại hội thanh niên tín đồ Cao Đài). Lực lượng tỉnh lúc này có 12 tiểu đoàn và nhiều đại đội độc lập ở các huyện. ở các xã lực lượng du kích đều có từ trung đội đến đại đội, đã tự lực giải phóng quê hương.

Tại miền Tây Nam Bộ, khu Đoàn đã huy động 30 ủy viên Ban Chấp hành và cán bộ chủ chốt xuống tăng cường cho thành phố Cần Thơ và các tỉnh Rạch Giá, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Long Châu Hà. Các tỉnh đã huy động hàng trăm cán bộ Tỉnh Đoàn tăng cường xuống các huyện. Hàng trăm cán bộ huyện Đoàn được tăng cường xuống các xã, phát động thanh niên tòng quân và nổi dậy. Chỉ hơn 10 ngày, toàn khu đã có 8.311 thanh niên tòng quân, 286 thanh niên được bổ sung cho chủ lực khu, 3.570 đoàn viên, thanh niên tham gia bộ đội tỉnh, số còn lại tham gia chủ lực huyện và lực lượng an ninh vũ trang.

ở Mỹ Tho - Gò Công, Đoàn thanh niên đã khẩn trương phân công hầu hết cán bộ đi về cơ sở chỉ đạo phong trào. Các tổ chức Đoàn ở cơ sở được kiện toàn, khẩn trương xây dựng lực lượng không lộ, xây dựng địa bàn bám trụ, tạo điều kiện để các lực lượng cách mạng đứng chân, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giải phóng thị xã, thị trấn.

Trên các nẻo đường ra trận, tuổi trẻ đã sống những ngày sôi động. “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Quân đi như nước chảy, xe chạy gần như chỉ có một chiều: tiến về phía Nam.

Ngày 14-4-1975, cuộc phòng thủ tiền tiêu của địch ở Phan Rang bị tiến công. Suốt 2 ngày đêm ròng rã, ta và địch giành nhau từng vị trí, các chiến sĩ trẻ, có người chỉ mới vừa tròn một tháng tuổi quân, đã nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, một mình xông lên tiêu diệt hoả điểm địch, tạo điều kiện cho đồng đội đánh bật địch ra khỏi từng ổ đề kháng.

Cùng ngày 14 tháng 4, Bộ Chính Trị Trung ương Đảng đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Sài Gòn - Gia Định là nơi tập trung cơ quan đầu não của ngụy quân, ngụy quyền, các kho tàng và căn cứ hậu cần quan trọng, trung tâm chính trị, kinh tế, là sào huyệt cuối cùng của địch.

Sài Gòn - Gia Định cũng là một thành phố lớn với 3,5 triệu dân, có truyền thống đấu tranh cách mạng hết sức kiên cường, nơi đã chứng kiến sự tích oanh liệt của những anh hùng trẻ tuổi có sức cổ vũ hàng triệu người đứng lên, như Lý Tự Trọng, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi, Quách Thị Trang, Nguyễn Thái Bình,v.v…

Trong những ngày tháng 4-1975, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, tuổi trẻ thành phố Sài Gòn - Gia Định tranh thủ từng giờ từng phút tổ chức lực lượng và triển khai kế hoạch chiến đấu, phối hợp chặt chẽ trong và ngoài. Các đơn vị đặc công của mặt trận Sài Gòn, các chiến sĩ biệt động của Thành Đoàn, được bố trí theo thế trận. Ngoài 4 tiểu đoàn được tăng cường ở các quận ngoại thành, ở nội thành có 60 tổ biệt động mới với hơn 300 thanh niên vũ trang ém sẵn ở những vị trí xung yếu.

Thành Đoàn thanh niên thành phố gấp rút tổ chức lực lượng cán bộ, đoàn viên và quần chúng cách mạng ở từng vùng, phụ trách những công việc cần kíp như hướng dẫn quần chúng nổi dậy làm chủ đường phố, chiếm lĩnh các cơ quan quan trọng của địch khi bộ đội chủ lực chưa kịp đến. Thành Đoàn chia làm 2 bộ phận: bộ phận phụ trách phong trào công khai và chỉ đạo 5 điểm khởi nghĩa ở nội thành là Bàn Cờ - Vườn Chuối,  Gia Định, Phú Nhuận, Tân Phú - Bảy Hiền, Khánh Hội - Vĩnh Hội. Một bộ phận tăng cường cho các quận, huyện vận động quần chúng tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Thành Đoàn còn tổ chức những trung đội tự vệ có vũ trang, triển khai ở nhiều vị trí then chốt, phân công đoàn viên, thanh niên sẵn sàng hướng dẫn các mũi tiến công của quân giải phóng trên nhiều hướng.

Sau khi chọc thủng tuyến phòng thủ của địch ở Xuân Lộc - Long Khánh và những tuyến phòng thủ khác quanh Sài Gòn, từ 5 hướng, 5 quân đoàn chủ lực tinh nhuệ, cùng các lực lượng vũ trang khác mở cuộc tổng công kích vào thành phố. Đến bước đường cùng, kẻ địch càng liều chết chống cự ở nhiều vị trí then chốt trước cửa ngõ Sài Gòn. Nhiều cuộc đấu tăng, đấu pháo đã diễn ra kịch liệt ở Cầu Bông, cầu Bình Lợi, tiến sát tới cầu Bình Triệu thì gặp ngay đoàn xe tăng gần 100 chiếc của địch tiến về phía cầu. Chúng dàn thành một tuyến dày đặc, hòng phá cầu, cản bước tiến của quân ta. Rất bình tĩnh, các chiến sĩ trẻ đoàn BK 17 theo lệnh chỉ huy chọn phương án táo bạo, áp đảo kẻ thù, xông thẳng vào đội hình xe tăng địch dùng đạn xuyên và B41 bắn gục ngay 3 chiếc tăng của chúng và tràn sang cầu, tung hoành giữa đội hình đang rối loạn của chúng.

Ở Cầu Bông, địch sử dụng những xe tăng M48, M41, M113, tháo chạy từ Đồng Dù, Hóc Môn, Củ Chi về co cụm lại thành từng cụm chiến đấu. Phía trước, chúng cho xe GMC nằm ngang ra giữa đường tạo thành vật cản. Đang đà tiến, Trung đoàn phó Tô Quốc Trịnh, một cán bộ chỉ huy trẻ, mới 28 tuổi đời, không do dự, cùng tiểu đoàn trưởng xe tăng quyết định diệt địch trong hành tiến. Các chiến sĩ bộ binh cũng được điều tới, dùng B40, B41 diệt từng xe tăng địch. Kẻ địch không chịu nổi đòn tiến công, bỏ cả xe tháo chạy.

Từ ngày 29 tháng 4, các mũi tiến công của 15 sư đoàn quân giải phóng đồng loạt tiến vào nội thành. Cả Sài Gòn - Gia Định chìm ngập trong bão táp cách mạng. 10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, đoàn xe 7 chiếc của tiểu đoàn 7, trung đoàn 66, đoàn 304 tiến qua cầu Sài Gòn thẳng hướng về phía dinh Độc Lập (nay là Hội trường Thống Nhất), khi tân nội các của ngụy quyền Sài Gòn đang chuẩn bị làm lễ ra mắt. Sau khi xe tăng 390 do chính trị viên Vũ Đăng Toàn chỉ huy và trung sĩ Nguyễn Văn Tập lái húc đổ cánh cổng chính rồi tiến thẳng vào trong sân, Đại đội trưởng Bùi Quang Thận từ xe sau (843) vọt lên nhanh chóng cắm lá cờ cách mạng lên nóc dinh Độc Lập, báo hiệu giờ cáo chung của chế độ ngụy quyền tay sai Mỹ.

Ở những mũi tiến công khác, xe tăng và bộ binh được sự hướng dẫn của các chiến sĩ biệt động và quần chúng nổi dậy, nhanh chóng tiến vào thành phố, đánh chiếm các mục tiêu quan trọng như Bộ tổng tham mưu ngụy, Tổng nha cảnh sát… Các mũi tiến công của Thành Đoàn đón đúng thời cơ nhanh chóng tiếp quản trụ sở Tổng hội sinh viên ở số 4 Duy Tân.

Trong khi đó cuộc chiến đấu ở sân bay Tân Sơn Nhất vẫn diễn ra quyết liệt ngay cả khi Dương Văn Minh, Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn đã tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Với quyết tâm: “Ghìm chúng lại đánh cho đứa ở mặt đất không dám cất cánh, đứa đang bay trên trời phải tan xác”. Các chiến sĩ trẻ đoàn Trung Dũng từng quét địch ở Cầu Bông, ở ngã tư Bà Quẹo suốt 48 tiếng đồng hồ không kịp ăn cơm, không kịp uống nước, nhiều chiến sĩ bị mất tiếng, nhưng khi được điều đến đánh chiếm sân bay không một ai chịu rời trận địa. Nhiều chiến sĩ đã ngã xuống ngay trong giờ phút thắng lợi hoàn toàn. Đại đội trưởng Nguyễn Văn, rồi Đại đội phó Thọ dẫn tổ mũi nhọn xông lên áp sát hàng rào. Địch ngoan cố chống cự, đạn bắn ra như xối. Lá cờ cách mạng trên tay Quí bị đạn xuyên thủng thêm mấy chỗ. Nhưng 2 tay súng Lang và Hậu đã lọt được vào hàng rào đang xả AK về phía địch. Lợi dụng lúc bọn chúng đang hoang mang khi nghe tướng Minh tuyên bố đầu hàng, và trong những loạt đạn bắn phá dữ dội của pháo binh, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 5 Nguyễn Thiết Kế dẫn đầu đơn vị xông vào phối hợp với 2 tay súng Lang và Hậu, quét địch ra khỏi những hang ổ cuối cùng.

11 giờ 30 phút dinh “Độc Lập” của ngụy quyền Sài Gòn trở thành hợp điểm của các cánh quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, lá cờ cách mạng lộng gió tung bay trên nóc “phủ Tổng thống” ngụy. Theo dõi từng giây, từng phút cuộc tiến quân lịch sử của quân ta vào giải phóng Sài Gòn, cả Hà Nội, cả đất nước đổ ra đường, đốt pháo, tung hoa vẫy cờ trong khí thế tưng bừng của ngày hội lớn, miệng hát vang bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”.

*
*    *

Đoàn ta và tuổi trẻ cả nước đã đi qua những năm tháng quyết liệt, đã lập nên bao kỳ tích anh hùng, thể hiện nổi bật phẩm chất của cả một thế hệ có giác ngộ lý tưởng cách mạng sâu sắc, dám chấp nhận gian khổ, ác liệt, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn.

Được Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại dày công giáo dục và rèn luyện, thế hệ thanh niên chống Mỹ đã không ngừng nâng mình lên ngang tầm nhiệm vụ lịch sử để dù phải đương đầu với một tên đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế, quốc phòng mạnh, có nền khoa học kỹ thuật chiến tranh hiện đại vẫn chiến đấu và chiến thắng hết sức oanh liệt, không chỉ bằng lòng dũng cảm hy sinh mà còn bằng cả tài trí thông minh sáng tạo của Đảng ta, nhân dân ta.

Tạo dựng được cả một thế hệ đầy hào khí, làm nên sự nghiệp vẻ vang là thành quả đáng tự hào và cũng là bài học vô cùng sinh động về công tác giáo dục rèn luyện cũng như tổ chức, động viên, khơi dậy những tiềm năng vốn có, đưa tuổi trẻ đi vào thực tiễn hành động cách mạng ở những mũi nhọn của cuộc sống, gắn liền vận mệnh của tuổi trẻ với vận mệnh của dân tộc trong những điều kiện thử thách sống còn. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo học thuyết cách mạng của Mác và Lê nin để ngay trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt vẫn tiếp tục đào luyện nên thế hệ thanh niên mới đủ năng lực và phẩm chất kế tục một cách trung thành và xuất sắc sự nghiệp của Đảng và của dân tộc.

Mặt khác chúng ta cũng đã phát động liên tục các phong trào quần chúng sâu rộng, có sức sống trong nhiều năm, tiêu biểu là các phong trào “Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong”, đáp ứng nhiệt huyết của đoàn viên, thanh niên đang khát khao được cống hiến sức lực và trí tuệ cho nhân dân và cho đất nước. Cả một nghệ thuật vận động quần chúng đã được nâng lên ở tầm cao trong việc tạo ra động lực tinh thần và từ đó biến thành sức mạnh vật chất để làm nên chiến thắng.

Dưới ngọn cờ của Đảng, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã có những cống hiến xuất sắc trong quá trình tổ chức, động viên một lực lượng to lớn bao gồm hàng triệu nam nữ thanh niên vươn lên hàng đầu chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp là độc lập, tự do, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Tổ chức Đoàn đã trưởng thành về mọi mặt xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, đội tiền phong chiến đấu của tuổi trẻ Việt Nam, càng vững tin đi tới cùng sự nghiệp Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.

Liên kết website