Chương IX

THANH NIÊN MIỀN NAM THAM GIA ĐẤU TRANH BẢO VỆ HÒA BÌNH, ĐÁNH BẠI “CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ

1. Phong trào đấu tranh chính trị, diệt ác phá kìm kẹp, tiến tới Đồng Khởi, giành quyền làm chủ về tay nhân dân.

Với âm mưu chia cắt đất nước lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, đế quốc Mỹ từng bước hất cẳng Pháp, đưa Ngô Đình Diệm cùng bọn tay sai lên nắm quyền thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng miền Nam và phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Nhân dân và tuổi trẻ miền Nam vừa được hưởng niềm vui thắng lợi của 9 năm kháng chiến đã phải tiếp tục cuộc đấu tranh trong điều kiện mới vô cùng gay go, gian khổ để đòi Mỹ - Diệm phải thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi quyền dân sinh, dân chủ, bảo vệ các quyền lợi ta đã giành được, chống khủng bố và trả thù những người kháng chiến cũ.

Để bảo toàn lực lượng, tiếp tục lãnh đạo nhân dân miền Nam tranh đấu với kẻ thù mới vô cùng xảo quyệt, gian ác, tổ chức của Đảng phải rút vào hoạt động bí mật. Các Đảng bộ miền Nam tiến hành sắp xếp và củng cố lại tổ chức, thực hiện chủ trương bám đất, bám dân, trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh để gìn giữ lực lượng cách mạng và chuẩn bị cho cao trào cách mạng mới.

Các tổ chức cách mạng đều rút vào hoạt động bí mật. Đoàn Thanh niên Cứu quốc không còn hệ thống dọc, chỉ còn chi đoàn cơ sở do chi bộ Đảng trực tiếp lãnh đạo. Các tổ chức quần chúng công khai đã hình thành.

Ở nông thôn, cùng với nông dân, thanh niên tham gia vào các tổ vần công, đổi công, các hội hiếu, hội hỉ, các đội đá banh, bóng chuyền, đội múa lân, đội văn nghệ. Để duy trì các hoạt động đó, nhiều nơi còn đòi Hội đồng hương chính tài trợ tiền để đi biểu diễn văn nghệ, đấu giao hữu thể thao giữa các ấp, các xã với nhau... qua đó móc nối liên kết phong trào.

Ở đô thị, thanh niên được tổ chức vào nghiệp đoàn, thanh niên học sinh, sinh viên lập các nhóm học tập, vào hội truyền bá quốc ngữ, nhóm du ngoạn, thể thao, văn nghệ... Tổ chức đi tham quan di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, truyền bá các bài ca yêu nước, bài ca kháng chiến.

Tại thành phố và đô thị miền Nam, nổi lên phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống “trưng cầu dân ý” lừa bịp, chống bầu cử quốc hội bù nhìn, chống đuổi nhà, dồn dân, đòi công ăn việc làm. Từ cuối năm 1954 đến giữa năm 1955, hàng trăm ủy ban đấu tranh bảo vệ hòa bình được thành lập, tiêu biểu là phong trào hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn. Hưởng ứng phong trào bảo vệ hòa bình do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch, ngày 1-8-1954, 50 ngàn thanh niên và nhân dân Sài Gòn, 15 ngàn nhân dân và thanh niên Huế, 25 ngàn nhân dân và thanh niên Đà Nẵng xuống đường mít tinh, biểu tình mừng hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi tổ chức tuyển cử tự do, hòa bình thống nhất đất nước.

Hoảng sợ trước làn sóng đấu tranh đó của tuổi trẻ và nhân dân miền Nam, Mỹ - Diệm thẳng tay đàn áp các cuộc mít tinh, biểu tình, trả thù những người kháng chiến.

Cuối năm 1954, Mỹ - Diệm bắt giam các nhân sĩ, trí thức lãnh đạo phong trào bảo vệ hòa bình, trong đó có Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng, Giáo sư Phạm Huy Thông, Giáo sư Từ Bá Đước,v.v... Mỹ - Diệm còn cho bọn mật vụ, ác ôn, lùng sục, vây bắt rồi bí mật thủ tiêu những người kháng chiến cũ. Tại Quảng Nam, nhiều vụ trả thù tàn khốc xảy ra như vụ Vĩnh Trinh, Duy Xuyên, Tiên Phước.

Đàn áp, trả thù tàn bạo, nhưng Mỹ - Diệm cũng không thể dập tắt được phong trào đấu tranh của thanh niên và nhân dân miền Nam. Hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Liên Nam Bộ, ngày 10-7-1955, ở Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn và nhiều nơi khác như Mỹ Tho, Sa Đéc, Long Xuyên, Gò Công... nổ ra tổng bãi công, bãi thị. Nhân dân và thanh niên đã tảy chay trò hề “trưng cầu dân ý” của Diệm. Ngày 10-11-1955, 40 ngàn công nhân cao su Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh... đình công đòi tăng lương, đòi tự do dân chủ. Ngày 1-5-1956, gần nửa triệu công nhân, thanh niên lao động Sài Gòn và các tỉnh, giương cao khẩu hiệu “Thống nhất đất nước bằng phương pháp hòa bình”, “Nước Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm”.

Cuộc đấu tranh của học sinh, sinh viên vốn đã có từ trước, nay cũng có bước phát triển mới, mang sắc thái riêng. Ngay sau ngày hòa bình lập lại, hình thức tổ chức hiệu đoàn học sinh được ta đưa từ vùng chiến khu vào thành phố để tổ chức tập hợp học sinh, chăm lo đến quyền lợi của học sinh về đức, trí, thể, mỹ, được đông đảo thanh niên học sinh hưởng ứng. ở Sài Gòn, các Trường Huỳnh Khương Ninh, Nam Việt, Việt Nam học đường đã tổ chức được hiệu đoàn, dần dần lan rộng ra hầu hết các trường. Tuy nhiên, đây cũng là một cuộc đấu tranh quyết liệt, vì chế độ Ngô Đình Diệm biết rằng hiệu đoàn học sinh là của ta, nên chúng không dễ gì chấp nhận. Tại Trường Kiến Thiết (Sài Gòn), các vị trí quan trọng như Hiệu trưởng, Giám thị đều do bọn phản động nắm nên cuộc đấu tranh phải kéo dài từ 1954 đến 1959 mới giành được thắng lợi. Hình thức đấu tranh của học sinh phổ biến là đòi lập hiệu đoàn, cử đại diện, đưa kiến nghị, yêu sách với ban giám hiệu, dần dần các trường liên kết với nhau dưới hình thức liên trường, hỗ trợ nhau kịp thời khi cần thiết, mở rộng hoạt động thành phong trào và tranh thủ sự đồng tình của các giới. Đây là một tổ chức hợp pháp, có hệ thống do Đoàn chỉ đạo, mở ra cho phong trào học sinh nói riêng và phong trào thanh niên đô thị nói chung một khả năng phát triển mới.

Một phong trào không kém phần sôi nổi, là đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hóa đồi trụy, phản động cũng do các tổ chức Đoàn và hiệu đoàn học sinh chỉ đạo. Hình thức phổ biến là phát động thanh niên “Tẩy chay không nhận, không xem, không hưởng ứng”... các loại sách, báo, văn hóa phẩm, phim ảnh của Mỹ - Diệm và phương Tây. Chúng tung hàng loạt Tạp chí “Thế giới tự do” vào các trường, các khu phố, nhưng không được đông đảo thanh niên hưởng ứng. Do trái với đạo lý, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc nên các giới, cha mẹ học sinh ủng hộ phong trào đấu tranh của giới học sinh, thanh niên. Ngoài ra, phong trào đấu tranh đòi chuyển ngữ đại học, đòi dạy tiếng Việt ở bậc đại học vốn đã có từ năm 1953-1954, nay lại dấy lên trong các trường đại học. Phong trào tuy không rầm rộ, sôi nổi, nhưng quyết liệt. Bởi, nếu phải chấp nhận thì Mỹ - Diệm buộc phải thay đổi toàn bộ giáo trình bậc đại học. Cuộc đấu tranh kiên trì từng bước của học sinh, sinh viên cho đến năm 1960 buộc địch phải thực hiện chuyển ngữ hoàn toàn từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt ở các trường đại học.

Tháng 7-1957, cuộc đấu tranh của hàng trăm học sinh trường tư, do đồng chí Hồ Hảo Hớn, Phó Bí thư Ban Cán sự học sinh, sinh viên Sài Gòn - Gia Định trực tiếp chỉ đạo đã cử đoàn đại diện gồm 5 người đưa kiến nghị trực tiếp với Tổng giám đốc Nha học chính, đòi mở thêm trường công, chuyển ngữ đại học. Đây là cuộc đấu tranh trực diện đầu tiên với chính quyền Diệm, do đó chúng rất lúng túng, không kịp đối phó, cuối cùng chúng phải nhận đơn và hứa hẹn giải quyết. Tháng 2 - 1958, phát huy thắng lợi cuộc đấu tranh lần trước, Ban cán sự học sinh - sinh viên Sài Gòn - Gia Định lại tổ chức cuộc đấu tranh đòi tăng học bổng, bỏ lệ phí thi cử, giảm học phí trường tư, chuyển ngữ đại học. Cuộc đấu tranh lần này liên kết được nhiều trường, quy mô lớn hơn, tập hợp thành đoàn biểu tình, có biểu ngữ, đấu tranh trực diện với Bộ quốc gia giáo dục ngụy. Địch đối phó, bắt nhiều học sinh đưa về bốt. Chúng đe dọa, khủng bố tinh thần, nhằm tìm ra đầu mối tổ chức, nhưng anh chị em không nao núng, kiên quyết đòi phải trả tự do cho những người bị bắt. Chỉ sau vài tiếng đồng hồ, buộc chúng phải trả hết những anh chị em bị bắt, cuộc đấu tranh tuy chưa thu được kết quả ngay nhưng là một dịp tuyên truyền, giác ngộ quyền lợi dân sinh, dân chủ học đường trong học sinh, sinh viên nhiều trường, liên kết lực lượng, tập dượt đấu tranh trên quy mô lớn, góp phần phá vỡ một bước quan trọng âm mưu “tách chính trị ra khỏi học đường”.

Đầu năm 1959, địch đưa ra tòa xét xử 5 đại diện học sinh trong cuộc đấu tranh trực diện với Nha học chính năm 1957 hòng ngăn chặn phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên. Hàng ngàn học sinh, sinh viên kéo đến trước tòa án biểu dương lực lượng, đòi địch hủy bỏ bản án. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, chúng đã phải tuyên bố hủy bỏ vô thời hạn cuộc xử án.

Cuộc đấu tranh chống văn hóa lai căng, đồi trụy, phản động của thanh niên, học sinh, sinh viên miền Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ, với những hình thức phong phú, đa dạng, từ chỗ tập hợp lẻ tẻ từng nhóm, từng lớp, từng trường liên trường và mở rộng ra cả đường phố, dưới các dạng học tập, báo tường, báo liếp, sinh hoạt văn nghệ thể thao, du ngoạn, cắm trại; nhất là nhân dịp diễn ra các ngày kỷ niệm như 9-1, 19-5, 20-7, kỷ niệm Bà Trưng, Bà Triệu, Quang Trung,v.v... anh chị em đã tổ chức họp mặt, diễn đàn, hội thảo, thăm mộ anh Trần Văn Ơn, tham quan các di tích lịch sử,v.v... để cổ vũ tinh thần dân tộc.

Sự phát triển phong trào học sinh, sinh viên và thanh niên đô thị đã làm cho Mỹ - Diệm lo sợ. Chúng tăng cường đàn áp, khủng bố với nhiều hình thức từ bắt bớ, tù đày, tra tấn đến mua chuộc, dụ dỗ,v.v... tuy có gây nhiều khó khăn, thiệt hại nhưng phong trào học sinh, sinh viên vẫn tiếp tục phát triển, vẫn là mũi nhọn sắc bén trong cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam. Các phong trào đấu tranh đòi hòa bình, dân chủ, dân sinh, chống “tố cộng, diệt cộng” đã lôi cuốn hàng triệu lượt người tham gia bao gồm mọi lứa tuổi, các dân tộc, tôn giáo, ở khắp mọi nơi từ Quảng Trị đến Cà Mau. Trong 2 năm (1955-1956) có 7 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị; năm 1957 có 3 triệu lượt người; năm 1958 có 3,7 triệu lượt người; năm 1959 có 5 triệu lượt người tham gia.

Để chuẩn bị lâu dài cho cuộc chiến đấu với kẻ thù, lợi dụng địch bắt lính ồ ạt, nhiều cán bộ, đoàn viên và thanh niên cốt cán được bố trí vào các sắc lính của địch làm cơ sở nội tuyến. Ở Biên Hòa, Bà Rịa, Bến Tre... có tới một nửa số dân vệ là người của ta. Tại Thủ Dầu Một, riêng đồng chí Mười Niên, cán bộ thanh niên tỉnh đã đưa trên 200 thanh niên vào dân vệ, bảo an và quân chủ lực địch. Tại Rạch Giá, đại đội cảnh vệ binh đặc khu An Phước có 130 người thì 90 người là của ta... Trong các giáo phái đối lập với chính quyền Ngô Đình Diệm, ta đều cài được người của ta. Khi Diệm đàn áp các giáo phái, ta dùng danh nghĩa giáo phái lập các đội vũ trang ly khai, diệt bọn ác ôn, tề, điệp để bảo vệ tổ chức Đảng, bảo vệ cán bộ, giữ vững phong trào. Tây Ninh có đại đội 25 Cao Đài ly khai; Bà Rịa, Biên Hòa có các đội vũ trang Bình Xuyên, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Long Xuyên có các đơn vị vũ trang Hòa Hảo, nòng cốt trong các đội này là đoàn viên và thanh niên do các đảng viên lãnh đạo.

Trong khi địch đánh phá tổ chức Đảng, lùng bắt đảng viên quyết liệt, đoàn viên và thanh niên vịn cớ thôn xóm mất an ninh, buộc Hội đồng hương chính phải cho lập các đội tự vệ, dân canh, tuần sương chống trộm cướp. Các đội này tổ chức bảo vệ cán bộ, đảng viên, chống bọn mật vụ, thám báo.

Giai đoạn 1955 - 1956, Mỹ - Diệm tiến hành cuộc chiến tranh một phía, đánh phá ta quyết liệt, đó là thời kỳ khó khăn nhất của cách mạng miền Nam. Nhưng Mỹ - Diệm đã không thể diệt tận gốc cộng sản được, dù chúng đã phải tổ chức các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” đến đợt hai, đợt ba như ở Liên Khu V. Nhiều tấm gương giữ vững khí tiết và niềm tin yêu vào lý tưởng cách mạng xuất hiện khắp nơi. Tiêu biểu là Trần Thị Lý, người con gái Gò Nổi, đất Quảng anh hùng, bị tra tấn dã man, chết đi sống lại nhiều lần, với trên 40 vết thương để lại trên cơ thể vẫn giữ vững khí tiết của người đoàn viên thanh niên cộng sản. Noi gương Trần Thị Lý, Phan Thị Cam, Trần Thị Vân, Võ Chuẩn và hàng vạn đoàn viên, thanh niên khác đã nêu cao ý chí cách mạng kiên cường, thà chết chứ không khuất phục, kiên quyết không khai báo cơ sở cách mạng, không ly khai Đảng.

Em Nguyễn Thị Chi, 13 tuổi ở Giồng Trôm (Bến Tre), địch lùng bắt cán bộ, mình em ở nhà nhưng đã đưa anh cán bộ xuống hầm bí mật, ngụy trang, xóa dấu vết, vì có chỉ điểm nên chúng bắt em đánh đập, bắt chỉ hầm, nhưng em vẫn khăng khăng không nhận. Em Nguyễn Thị Thanh, 15 tuổi, ở xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận, (Bình Thuận) làm giao liên cho chi bộ, địch bắt khám trong người có tài liệu, chúng đánh đập, tra khảo, đốt cháy hai lòng bàn chân, em cắn răng chịu đau, không khai nửa lời.

Khí tiết của những đảng viên, đoàn viên thanh niên cộng sản đã cổ vũ khí thế đấu tranh của quần chúng nhân dân và thanh niên. Dù khó khăn đến mấy vẫn một lòng bảo vệ, nuôi giấu cán bộ, đảng viên. Thanh niên vùng căn cứ cũ ở U Minh thượng, U Minh hạ (miền Tây Nam Bộ), chiến khu Đ và vùng căn cứ miền Đông Nam Bộ, các huyện miền núi Trung Bộ và Tây Nguyên không chịu khuất phục Mỹ - Diệm, rủ nhau vào lập Làng Rừng, Làng Thanh niên, Làng Xã hội chủ nghĩa (Cà Mau); lập các căn cứ, trại bí mật miền Đông Nam Bộ, miền Trung và Tây Nguyên). Tại Bình Định, 20 thanh niên ở Bình Khê lập “Đội thanh niên nghĩa hiệp” chống Mỹ - Diệm; 45 thanh niên xã Hoài Sơn, Hoài Nhơn lập “Trung đội Cứu quốc” rồi cử người lên núi tìm Đảng xin vũ khí đánh giặc. ở Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài Nhơn thanh niên tự động tổ chức các “Hội thanh niên yêu nước chống Mỹ” có hai nghìn hội viên...

Đầu tháng 6-1956, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình miền Nam, xác định cụ thể: “Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị... nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định...” Từ thực tiễn chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam, tháng 8-1956 đồng chí Lê Duẩn soạn thảo “Đề cương cách mạng miền Nam” vạch ra nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là: “Trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm tay sai Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc, phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ, để cùng miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất...”

Chủ trương mới của Đảng là dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, đưa cách mạng đến thắng lợi, được nhân dân, nhất là thanh niên nhiệt liệt đón nhận. Tháng 10-1957, tại chiến khu Đ, một căn cứ chủ yếu của cách mạng, Đại đội 250, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên ở miền Nam được thành lập. Đến đầu năm 1958, đơn vị đã phát triển thành tiểu đoàn. Ngay sau khi thành lập, đơn vị 250 đã lập nhiều thành tích chiến đấu, bảo vệ căn cứ và mở rộng phong trào ở miền Đông Nam Bộ. Đến cuối năm 1957 ở Nam Bộ đã có 37 đại đội vũ trang cách mạng. Ở Liên khu V, nhiều đội trừ gian ra đời. Phong trào thanh niên có bước chuyển động mới, là lực lượng đi đầu diệt ác, phá kìm kẹp, tham gia lực lượng vũ trang ở khắp mọi nơi.

Anh Hà Minh Trí (Mười Thương), 22 tuổi ở Tây Ninh đã 3 lần lập kế hoạch tiêu diệt Ngô Đình Diệm. Lần đầu, Diệm lên Tòa Thánh Tây Ninh, nhưng cơ sở ở Sài Gòn báo cận ngày quá, không triển khai kịp. Lần thứ hai, kế hoạch được bố trí chu đáo khi Diệm đến dự lễ Nôen tại nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn đêm 24-12-1956, nhưng Diệm đột ngột thay đổi, hắn đi dự lễ Nôen ở khu trù mật Đức Huệ. Làn thứ ba, Diệm bị chết hụt ở Hội chợ Buôn Ma Thuột sáng 22-2-1957. Hà Minh Trí bị bắt đưa về Sài Gòn để khai thác, tra tấn, nhưng trước sau anh chỉ khai là người của Cao Đài, giết Diệm vì ông ta đàn áp giáo phái, làm cho giáo chủ Phạm Công Tắc phải chạy qua Nam Vang. Bị kết án tử hình, nhưng nhờ vỏ bọc Cao Đài nên Diệm không xử ngay mà đày ra Côn Đảo. Sau khi anh em Diệm bị giết, năm 1964 chúng đưa anh về đất liền. Năm 1965, Phan Khắc Sửu là người của Cao Đài lên làm Thủ tướng, anh chống án lên Thủ tướng. Tháng 10-1965, chúng trả tự do cho Hà Minh Trí, anh trở lại đội ngũ tiếp tục chiến đấu.

Mỹ - Diệm đã biến bộ máy văn hóa, giáo dục tại miền Nam làm công cụ đầu độc thanh niên trở thành những mẫu người thích nghi với một xã hội tư sản, hoàn toàn lệ thuộc Mỹ, có tư tưởng quốc gia chống cộng, có lối sống Mỹ, xa rời truyền thống đạo lý, văn hóa dân tộc.

Trong thông điệp gửi cho tay sai các cấp, Ngô Đình Diệm nhấn mạnh: “Văn hóa tư tưởng là một lĩnh vực đặc thù mà kết quả của nó có tính chất quyết định cho cuộc đọ sức... đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ chống lại ý thức hệ, chiến tranh lý tưởng đối đầu lý tưởng”. Với thủ đoạn đầu độc về lý tưởng bằng chiêu bài “Độc lập”, “Quốc gia”, “Tự do, dân chủ”, với triết lý duy tâm “nhân vị, duy linh”, nói xấu miền Bắc, xuyên tạc lịch sử đi đôi với trụy lạc hóa về lối sống, mua chuộc đi đôi với kìm kẹp, đàn áp, khủng bố, tuyên truyền cho sức mạnh vô địch của Mỹ về quân sự và kinh tế, làm cho thanh niên từ phục Mỹ, đi đến sợ Mỹ, để cam tâm làm tay sai cho chúng. Mỹ - Diệm đã tuyên bố quyết tâm: “bôi đen bọn trẻ để cộng sản không nhuộn đỏ lại được” và lớn tiếng hô hào “Bắc tiến, lấp sông Bến Hải”...

Từ năm 1957 trở đi, Mỹ bắt đầu kế hoạch dài hạn 5 năm xây dựng quân đội ngụy có chất lượng cao hơn.

Diệm tăng cường bắt lính, đôn quân, ban hành luật quân dịch, khuyến khích thanh niên trí thức vào các trường sĩ quan, ưu đãi họ để đào tạo thành những chỉ huy quân ngụy, tuyệt đối trung thành với Mỹ. Dùng mọi thủ đoạn, kể cả việc đánh hỏng hàng loạt thí sinh kỳ thi tú tài phần I, đẩy họ vào các trường hạ sĩ quan và vào sắc lính.

Trước tình thế đó, thanh niên phải đấu tranh chống bắt lính, đôn quân để bảo vệ mình. Ngày 25-4-1957, đồng chí Võ Đông Sơn, nguyên huyện Đoàn ủy viên, Bí thư chi đoàn xã Thanh Phước (Gò Dầu, Tây Ninh) dẫn đầu hàng trăm thanh niên kéo lên dinh quận trưởng đấu tranh đòi hoãn quân dịch, chúng nổ súng, đồng chí hy sinh, lập tức nhân dân quận lỵ khiêng xác đồng chí lên tỉnh đấu tranh tố cáo tội ác Mỹ - Diệm và đòi bồi thường. Tại khu trù mật Hậu Nghĩa (nay thuộc tỉnh Long An) nữ đồng chí Tư Vân, cán bộ thanh vận quận, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải thoát cho 100 thanh niên bị bắt vào lính. Đấu tranh chống bắt lính nổ ra ở hầu khắp các tỉnh, nhưng tập trung và rầm rộ là ở Tây Ninh. Tháng 10-1957, theo sự chỉ đạo của tỉnh ủy, hàng vạn người kéo lên tất cả các quận đưa đơn xin miễn, hoãn quân dịch. Nổi bật là cuộc đấu tranh của quận Châu Thành, chủ lực là hai xã Hải Đước, Phước Vĩnh, có nhân dân các xã Thái Bình, Thanh Điền hỗ trợ kéo lên dinh Quận trưởng đóng tại thị xã đòi hoãn, miễn quân dịch. Mấy ngàn người bao vây dinh, tên quận trưởng Huê định cho lính đàn áp, đoàn viên Tô Thị Hoa (xã Hải Đước) đã xô tới dùng khúc mía đánh túi bụi vào đầu tên Huê, mọi người xông vào ẩu đả, chúng phải huy động bảo an, dân vệ, cảnh sát đến đàn áp. Tô Thị Hoa bị chúng bắt cùng hàng trăm bà con. Nhân dân tiếp tục đấu tranh, chúng thả gần hết còn giữ lại 15 người trong đó có Tô Thị Hoa, chúng đánh đập tra tấn hết sức dã man nhưng Hoa vẫn giữ vứng khí tiết một đoàn viên. ở Tây Nguyên nếu chỉ dựa vào già làng và chủ làng, địch vẫn bắt được một số thanh niên đi lính (vì chúng dọa nếu không nộp thanh niên chúng sẽ đốt làng). Quận An Khê (Plâycu), rút kinh nghiệm đó, vận động giác ngộ thanh niên trốn ra ở rừng, không còn thanh niên ở lại làng, địch không bắt được lính mà cũng không có cớ để đốt làng. Kinh nghiệm này phổ biến thành phong trào toàn tỉnh...

Cùng với phong trào chống bắt lính, phong trào xin gia nhập bộ đội cũng phát triển. Nhiều gia đình tha thiết xin cho con đi bộ đội đánh giặc hơn là để ở nhà bị chúng bắt lính chống lại cách mạng, nên họ đã chuẩn bị đầy đủ mọi mặt cho con em mình lên đường chiến đấu. Ngoài trang bị đồ dùng cá nhân cần thiết, nhiều gia đình còn đánh xe bò chở theo 20 đến 30 giạ lúa (4 đến 6 tạ) làm lương ăn đánh giặc. Phong trào tòng quân của thanh niên sôi nổi như vậy, nên lực lượng vũ trang cách mạng càng lớn mạnh, từ dân quân du kích xã đến các đội vũ trang huyện, tỉnh, liên tỉnh hình thành. Năm 1958, liên tỉnh Trung Nam Bộ (khu 8) có 3 đại đội ở vùng Đồng Tháp Mười. Liên tỉnh Tây Nam Bộ (khu 9) có 3 đại đội, đó là đại đội Lý Thường Kiệt đứng chân tại Lấp Vò, Trà Ôn, Sa Đéc; 2 đại đội ở Cần Thơ và Sóc Trăng. Nhiều cơ sở nội tuyến khởi nghĩa diệt chỉ huy ác ôn, mang súng trở về căn cứ như đồng chí Bảy Nghĩa ở Đông Lung Lớn (Hà Tiên) đưa cả trung đội trở về với nhân dân. ở Tây Ninh làm binh biến tại đồn Trảng Cỏ (Đồn Thuận, Trảng Bàng) và đồn Băng Dung (Phước Vĩnh, Châu Thành). Tại Liên khu V, các huyện miền núi hình thành nhiều nhóm vũ trang do các già làng có uy tín chỉ đạo, tỉnh và liên tỉnh có đội du kích tập trung và các đội võ trang tuyên truyền. Miền Đông Nam Bộ, ta lập đơn vị võ trang lấy danh nghĩa các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên. Đêm 10-8-1957, tập kích vào đồn điền Bến Củi, thu nhiều vũ khí, lương thực và 2 triệu đồng. Đêm 10 rạng sáng 11-11-1958, tập kích quận lỵ Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một), đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn, diệt 200 tên và bắt 30 tên ngụy, thu 200 súng. Hoảng sợ, 20 đồn bốt chung quanh bỏ đồn rút chạy. Đây là trận đánh lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Thua đau ở Dầu Tiếng, Ngô Đình Diệm điên cuồng thẳng tay đàn áp, khủng bố hòng ngăn chặn phong trào cách mạng đang sôi sục ở khắp miền Nam. Ngày 1-12-1958, chúng đầu độc hàng ngàn cán bộ cách mạng và đồng bào yêu nước ở trại giam Phú Lợi, Thủ Dầu Một. Trại giam có 6.000 người, 1.000 người chết ngay vì trúng độc. Phong trào phản đối vụ đầu độc ở Phú Lợi dâng lên khắp ở miền Nam, khắp cả nước ta và nhiều nước trên thế giới. Lực lượng vũ trang ở khắp miền Nam dấy lên phong trào “Trả thù cho đồng bào, đồng chí ở Phú Lợi”.

Năm 1959, lực lượng vũ trang cách mạng đã hình thành ba thứ quân đều khắp các vùng. Xứ uỷ Nam Bộ và Liên khu uỷ V chỉ đạo tăng cường các hoạt động vũ trang, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá ách kìm kẹp, giành quyền làm chủ, chống cướp đất, dồn dân lập các khu trù mật, ấp tân sinh, khu dinh điền... Trước phong trào cách mạng đang dâng lên mạnh mẽ, Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh (23-3-1959), đến tháng 5 - 1959 ban hành luật 10 - 59, lập tòa án lưu động, kéo lê máy chém đi “xét xử” những người yêu nước, chỉ có hai mức án là tử hình và khổ sai chung thân.

Trong không khí sục sôi căm thù và trước xu thế vùng dậy của quần chúng, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 (khóa II) họp ngày 13-1-1959 xác định đường lối và phương pháp cách mạng. Hội nghị đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Hội nghị khẳng định: Ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ. Chỉ có thắng lợi của Cách mạng mới chấm dứt cảnh cùng khổ của nhân dân miền Nam, mới triệt để làm thất bại mọi chính sách nô dịch, chia cắt và gây chiến của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở miền Nam.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng kết luận: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là con đường bạo lực. Lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu kết hợp với lực lượng vũ trang, đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng có ý nghĩa lịch sử to lớn, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, làm xoay chuyển tình thế, dẫn đến cuộc “Đồng khởi” oanh liệt toàn miền Nam năm 1960.

Ngay sau Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng, nhằm đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị chủ trương lập đơn vị vận tải quân sự dọc Trường Sơn, gọi tắt là Đoàn 559, và đơn vị vận tải vượt biển Đông, gọi tắt là Đoàn 759. Đoàn 559 và Đoàn 759, đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển có vai trò và vị trí chiến lược trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ và nhân dân Việt Nam. Thanh niên các dân tộc miền Tây, Trị Thiên và Tây Nguyên trong những ngày đầu mở đường đã gùi hàng chục tấn vũ khí, hàng hóa cùng với những đoàn tàu “Không số” chở hàng chục tấn hàng quân sự tiếp sức cho phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam đang nổi dậy.

Ở miền Trung, nhân dân nhiều vùng đã rút vào rừng lập căn cứ chống Mỹ, lập chính quyền tự quản, xây dựng các đội vũ trang mà nòng cốt là thanh niên như vùng Thồ Lồ, huyện Đồng Xuân (Phú Yên) giáp giới 3 tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Bình Định. ở Bình Định, thanh niên và nhân dân ở huyện Vĩnh Thạnh nổi dậy diệt ác, phá kìm và giành quyền làm chủ ở 60 làng với 5.000 dân. Trước khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng, nhân dân Bắc ái (Ninh Thuận) nổi dậy phá tan khu tập trung Bờ Râu và Tầm Ngần, trở về làng cũ, xây dựng lực lượng vũ trang, chống càn quét, giữ quyền làm chủ. Tháng 9 - 1959, du kích Bắc ái đã đánh bại cuộc càn của 3.000 quân ngụy, diệt hơn 300 tên. Nữ đoàn viên thanh niên Chamalê Dú chẳng may bị giặc bắt, đã dũng cảm nhảy xuống vực, thà chết chứ không chịu dẫn đường cho giặc. Tại miền Tây Quảng Ngãi, ngày 28-8-1959, 16.000 nhân dân huyện Trà Bồng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, đã nổi dậy đập tan ngụy quyền ở 16 xã, bức rút 7 đồn, diệt hàng trăm tên tề ngụy ác ôn, lập chính quyền cách mạng ở thôn, xã, xây dựng lực lượng vũ trang. Quận trưởng Trà Bồng chạy trốn về tỉnh lỵ. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan sang các huyện lân cận. Nhân dân Sơn Hà, Ba Tơ, Đức Phổ (Quảng Ngãi)... đứng lên vũ trang chống địch càn quét, dồn dân, giành quyền làm chủ ở nhiều thôn xã.

Địch đối phó quyết liệt bằng các cuộc càn quét kết hợp bao vây kinh tế hòng dồn lực lượng cách mạng ở đây vào thế bí để tiêu diệt. Đoàn viên và thanh niên Trà Bồng đã đi đầu trong cuộc nổi dậy, kiên quyết giữ vững thành quả đã giành được. Học tập kinh nghiệm của Trà Bồng, các đơn vị tự vệ ở các huyện xung quanh thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam đã đánh trả, bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của địch, không những bảo vệ được dân mà còn mở rộng được căn cứ địa cách mạng liên hoàn.

Ở Nam Bộ, nhân dân nhiều nơi ở miền Đông, miền Trung và miền Tây nổi dậy diệt ác, phá kìm kẹp làm tan rã từng mảng bộ máy thống trị và kìm kẹp của địch ở cơ sở.

Ngày 26-9-1959, lực lượng vũ trang cách mạng chặn đánh địch ở Gò Quản Cung, tỉnh Kiến Phong, diệt một tiểu đoàn ngụy và bắt sống 105 tên địch, thu 705 súng. Thừa thắng xốc tới, quần chúng nổi dậy ở các xã ven Đồng Tháp Mười và các tỉnh Trung Nam Bộ.

Đêm 24-9-1959, một đơn vị vũ trang Rạch Giá diệt gọn địch ở chi khu Xẻo Rô, giải phóng nhiều tù chính trị, dấy lên phong trào nổi dậy trong tỉnh và ở miền Tây.

Tại Bến Tre, Tỉnh ủy quyết định phát động “Tuần lễ toàn dân đồng khởi” nhằm phá ách kìm kẹp của địch, xây dựng chính quyền cách mạng, 4 giờ chiều ngày 17-1-1960, huyện Mỏ Cày được chọn làm điểm mở đầu, với vũ khí thô sơ, tự tạo, nhân dân nhất tề nổi dậy, diệt ác, phá đồn, đập tan bộ máy cai trị và hệ thống kìm kẹp của địch ở thôn, xã. Sau thắng lợi của cuộc nổi dậy ở Mỏ Cày, phong trào đồng khởi lan nhanh sang các huyện Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạch Phú, Bình Đại... Chỉ sau một tuần đồng khởi, ở Bến Tre có 22 xã được giải phóng hoàn toàn, 29 xã đã diệt ác, vây đồn, giải phóng nhiều ấp. Chính quyền tự quản và lực lượng vũ trang cách mạng được thành lập ở các vùng giải phóng, bọn ác ôn bị đưa ra xét xử, tịch thu ruộng đất của bọn Việt gian, địa chủ chia cho nông dân. Nhân dân vô cùng phấn khởi. Thanh niên nô nức gia nhập dân quân du kích, bộ đội huyện, tỉnh.

Thắng lợi của Đồng Khởi ở Bến Tre đã tác động mạnh đến phong trào cách mạng ở các địa phương lân cận.

Phong trào Đồng Khởi rộ lên khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, phá tan 2/3 bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở. Đêm 25-1-1960, lực lượng vũ trang Long An diệt đồn Đức Lập, Đức Hòa mở đầu đồng khởi ở một tỉnh sát nách Sài Gòn. ở Mỹ Tho, Gò Công được đơn vị 514 hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhân dân 19 xã ở Cai Lậy, Châu Thành nổi dậy, hình thành vùng giải phóng liên hoàn 32 xã thuộc ba huyện Cai Lậy, Châu Thành, Cái Bè. ở Cà Mau, Bạc Liêu ta diệt chi khu quận lỵ Ông Đốc, san bằng 62 đồn, giải phóng 55 xã, địch chỉ còn đóng ở quận lỵ, thị xã và các căn cứ lớn. Rạch Giá, Sóc Trăng bức rút 50 đồn, giải phóng hoàn toàn 28 xã, 300 ấp.

Theo chủ trương của xứ ủy Nam Bộ, lực lượng vũ trang cách mạng bất ngờ tiến công căn cứ Tua Hai (Tây Ninh) vào đêm 25 rạng ngày 26-1-1960, tiêu diệt và bắt sống 500 tên ngụy, thu 1.500 súng, làm cho tề, ngụy ở Tây Ninh hoang mang, quần chúng phấn khởi vùng lên giải phóng 24 xã trong tỉnh, 70% bộ máy kìm kẹp của địch ở xã, ấp bị xóa bỏ, vùng giải phóng mở rộng đến sát các thị trấn, thị xã, bao quanh các đồn bốt của địch. Hai huyện Châu Thành và Dương Minh Châu trở thành căn cứ của Xứ ủy và Ban Quân sự Miền ở ngay cửa ngõ phía Tây Sài Gòn.

Tỉnh Thủ Dầu Một trong năm 1960 và 25 xã trong số 60 xã được giải phóng. Tỉnh Bà Rịa đêm 2-3-1960 ta đột nhập Bình Ba diệt 3 đồn địch, mở đầu phong trào đồng khởi ở các huyện Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc, phối hợp với nội tuyến diệt 1 đại đội biệt kích ở Long Mỹ...

Ở Liên khu V, diệt và bức rút 55 đồn và căn cứ, có căn cứ lớn như Măng Đen, Măng Bút, Hà Thành... diệt 40 trung đội dân vệ, bảo an, chủ lực, giành quyền làm chủ 3.200 thôn ấp, cơ sở Đảng ở đồng bằng được phục hồi. Mở rộng và nối liền đường hành lang đông Trường Sơn từ nam giới tuyến đến Tây Nguyên tới miền Đông Nam Bộ. Trong cao trào đồng khởi, thanh niên không chỉ là lực lượng xung kích, mà ở nhiều xã chi bộ Đảng chưa được khôi phục, chi đoàn đứng lên lãnh đạo nhân dân đồng khởi giành chính quyền, nhiều người trở thành đảng viên, khôi phục chi bộ Đảng như các xã Tân Thạch, Hữu Định (Bến Tre). Điển hình là đoàn viên Tư Thanh ở Cù Lao Thái Sơn (Mỹ Tho) đã lội sông sang Bến Tre học tập đường đi nước bước rồi về cùng đoàn viên lãnh đạo nhân dân đồng khởi giành chính quyền, vì ở đây chi bộ Đảng không còn.

Tính đến cuối năm 1960, cao trào đồng khởi của quân dân miền Nam đã căn bản làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở địch ở nông thôn. Nhân dân đã lập chính quyền tự quản ở 1.383 xã trên 2.627 xã toàn miền Nam, đồng thời làm tê liệt chính quyền xã của Mỹ - Diệm. Ngụy quyền cơ sở ở Tây Nguyên và vùng rừng núi khu V bị quét sạch. Kế hoạch lập khu trù mật của địch bị phá sản. Chính sách “Cải cách điền địa” bị thất bại nặng, 2/3 ruộng đất Mỹ Diệm cướp trước đây đã trở về tay nhân dân...

Trong cao trào đồng khởi, lực lượng vũ trang nhân dân phát triển mạnh, thu hút đông đảo thanh niên tham gia. Ba thứ quân của lực lượng vũ trang (tự vệ, du kích xã; đội vũ trang tỉnh, huyện; tiểu đoàn tập trung ở khu) hình thành rộng khắp và phát triển. Các đội tự vệ, du kích xã có khoảng 10.000 người (Nam Bộ: 7.000, khu V: 3.000). Các đội vũ trang tỉnh, huyện có 12.500 người (Nam Bộ: 7.000, khu V: 5.500). Các đơn vị bộ đội tập trung ở khu có 3.034 người (Đông Nam Bộ 1 tiểu đoàn, khu V hơn một tiểu đoàn). Đây là sức mạnh mới của phong trào cách mạng miền Nam.

Phong trào đồng khởi ở nông thôn thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị. Tháng 1-1960, 8.600 công nhân đồn điền cao su Biên Hòa đình công, được sự ủng hộ của toàn thể công nhân cao su Nam Bộ. Ngày 1-5-1960, 1.000 công nhân Sài Gòn mít tinh nêu khẩu hiệu đả đảo đế quốc Mỹ, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ. Ngày 20-7, hàng vạn quần chúng ở các đô thị, và nông thôn đã xuống đường biểu tình đòi “đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam”, đòi quyền dân sinh, dân chủ. Tháng 8-1960, 500 thanh niên trại huấn luyện thanh niên cộng hòa ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam bỏ trại trốn về nhà. Ngày 20-9-1960, hơn 20.000 đồng bào Khơ me, trong đó có 2.000 sư sãi tỉnh Trà Vinh kéo vào thị xã đấu tranh đòi các quyền dân chủ, dân sinh và quyền tự do tín ngưỡng. Ngày 29-9-1960, 45.000 đồng bào nông thôn tỉnh Mỹ Tho kéo vào thị xã đấu tranh buộc chính quyền địch chấm dứt việc bắn pháo vào các thôn xóm. Ngày 4-10-1960, 10.000 đồng bào huyện Cao Lãnh kéo vào thị xã Sa Đéc đấu tranh chống khủng bố, bắt phu, bắt lính. Ngày 15-10-1960, hơn 60.000 đồng bào tỉnh Bến Tre kéo vào thị xã đấu tranh đòi hủy bỏ luật 10/59.

Trong năm 1960, ở miền Nam có 10 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị. Tiêu biểu nhất là phong trào đấu tranh nhân ngày 20-7-1960. Ngày hôm đó, trên khắp miền Nam nổ ra một đợt đấu tranh rộng lớn. Hình thức đấu tranh phổ biến là bãi công, bãi thị ở thành phố; mít tinh, biểu tình ở nông thôn, biểu tình từ nông thôn vào thành thị. Khẩu hiệu đấu tranh nhằm chống chính sách vơ vét, khủng bố của Mỹ - ngụy, bảo vệ quyền lợi cấp thiết của nhân dân, chống lại toàn bộ chính sách xâm lược và gây chiến của đế quốc Mỹ, động viên nhân dân lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ. Riêng ở Trung Nam Bộ, hàng nghìn cuộc biểu tình đã được tổ chức ở hơn 400 xã (trong tổng số 509 xã), thu hút 60 vạn người tham gia. Đánh giá đợt đấu tranh nhân dịp ngày 20-7 này ở miền Nam, báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III viết: “Cuộc đấu tranh ấy nói lên một cách rõ rệt khí thế cách mạng mạnh mẽ của đồng bào miền Nam ta hiện nay”.

Cao trào nổi dậy của nhân dân ta ở miền Nam được sự ủng hộ và đồng tình của các nước xã hội chủ nghĩa và tổ chức trên thế giới đã lên án chính sách phát xít của Ngô Đình Diệm và ủng hộ cuộc dấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta ở miền Nam. Ngày 20-7-1959, “Ngày Việt Nam” được tổ chức ở hơn 20 nước trên thế giới đòi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, đòi Diệm chấm dứt khủng bố, tàn sát và hủy bỏ luật lệ phát xít.

Phong trào đồng khởi trên thực tế đã chuyển cách mạng miền Nam “từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công” đã giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Đây là một mốc rất quan trọng của cách mạng miền Nam, tạo cơ sở vững chắc để nhân dân ta đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Một thời kỳ mới của cách mạng miền Nam đã mở ra, thời kỳ nhân dân tiến công liên tục và mạnh mẽ vào các chiến lược và chiến thuật của địch nhằm tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, phát triển lực lượng của ta, tạo tiền đề cho cách mạng từng bước tiến lên.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng, sau đồng khởi, các Uỷ ban nhân dân tự quản phát triển ngày càng rộng rãi. Ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên), trong vùng căn cứ Tây Ninh, Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam họp, thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Đại hội đã cử ra Uỷ ban Trung ương, thông qua tuyên ngôn, chương trình hành động 10 điểm, mà nội dung cơ bản là đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, xây dựng một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.

2. Tuổi trẻ miền Nam góp phần đánh thắng “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ (1961 - 1964)

Để cứu vãn chế độ Sài Gòn và duy trì, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới nhằm đối phó với cao trào cách mạng, Tổng thống Mỹ Kennơđi quyết định thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam.

Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” là một hình thức đặc thù của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ được thí điểm ở miền Nam nước ta bằng thủ đoạn “dùng người Việt đánh người Việt”, kết hợp những thủ đoạn chiến tranh xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ có vũ khí, kỹ thuật hiện đại với những biện pháp khủng bố, đàn áp dã man của bọn phong kiến, tư sản mại bản thân Mỹ ở miền Nam. Lực lượng chủ yếu tiến hành “Chiến tranh đặc biệt” là quân đội của ngụy quyền Sài Gòn do Mỹ tổ chức, trang bị, huấn luyện, chỉ huy và nuôi dưỡng.

Ngày 13-5-1961, Phó Tổng thống Mỹ Giôn xơn và Ngô Đình Diệm ra thông cáo chung với các điểm như: Tăng viện trợ kinh tế, phát triển các lực lượng chính quy ngụy, tăng cường cố vấn quân sự, kêu gọi sự giúp đỡ của các nước chư hầu theo Mỹ xâm lược miền Nam, đẩy mạnh công tác “bình định” nông thôn, chống du kích, lập “ấp chiến lược”, tăng cường hoạt động biệt kích phá hoại miền Bắc...

Để phát triển nhanh quân ngụy, Mỹ cho tăng viện trợ quân sự lên gấp đôi, từ 321,7 triệu đô la (trong đó có 80 triệu đô la vũ khí) cho năm 1961 - 1962, đến năm 1962 - 1963 đã lên 675 triệu (có 100 triệu đô la vũ khí). Vì thế, quân ngụy đã tăng khá nhanh. Từ 15 vạn quân chính quy trong năm 1960 lên 20 vạn quân trong năm 1961, 36,2 vạn quân trong năm 1962. Quân số lực lượng bảo an từ 70.000 tên năm 1960 lên 174.500 tên năm 1962.

Dân vệ trở thành lực lượng vũ trang thường trực gồm 128 đại đội và hơn 1.000 trung đội, 2.000 tiểu đội làm lực lượng chiếm đóng rộng, kìm kẹp nhân dân ở ấp, xã.

Một kế hoạch tổ chức “thanh niên chiến đấu” được thực hiện do CIA phụ trách huấn luyện, trang bị, đài thọ vừa để tăng cường, hỗ trợ cho quân thường trực trong việc bình định gom dân, lập “ấp chiến lược”, vừa bổ sung cho mạng lưới tình báo của Mỹ.

Mỹ-Ngụy coi bình định, dồn dân, lập “ấp chiến lược” là nội dung cơ bản, là “xương sống” của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Mục tiêu cơ bản của “ấp chiến lược” là kìm kẹp dân để thực hiện “tát nước, bắt cá”, lùng bắt cán bộ, đảng viên cộng sản, tiêu diệt cơ sở cách mạng, đánh phá “tận gốc” phong trào đấu tranh của quần chúng, bóp chết từ đầu các cuộc nổi dậy của quần chúng.

Cách mạng miền Nam đứng trước những thử thách nghiêm trọng. Nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tuổi trẻ và nhân dân miền Nam là giữ vững và mở rộng quyền làm chủ đã giành được, đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

Để cách mạng miền Nam tiến lên một bước mới, Đảng ta chủ trương chuyển khởi nghĩa sang chiến tranh cách mạng. Ngày 23-1-1961, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam để tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với cách mạng miền Nam.

Tiếp đó, ngày 31-1-1961, Bộ Chính trị ra chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam, là: đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự.

Do tương quan lực lượng giữa ta và địch ở từng vùng khác nhau nên phải nắm vững phương châm công tác ba vùng. ở vùng núi, lấy đấu tranh quân sự làm chủ yếu. ở vùng đồng bằng, kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự. ở vùng đô thị lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu gồm cả hai hình thức hợp pháp và không hợp pháp.

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục, Khu ủy khu V và các Đảng bộ địa phương, tuổi trẻ cùng quân dân ta ở miền Nam đã đấu tranh anh dũng, lần lượt đánh bại các mục tiêu của kế hoạch chiến tranh của địch, giành được thắng lợi quan trọng, đưa cách mạng tiến lên vững chắc.

Đảng bộ miền Nam đã có hệ thống tổ chức thống nhất, tập trung từ Trung ương Cục đến các chi bộ. Các cấp ủy quân khu, tỉnh ủy, huyện ủy được củng cố. Công tác phát triển Đảng được quan tâm. Nhiều đoàn viên ưu tú được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng, số Đảng bộ lớn mạnh lên trong đấu tranh quyết liệt ngày càng nhiều. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam nhiệm vụ ngày càng mở rộng. ở các xã giải phóng, ủy ban Mặt trận đã làm chức năng của chính quyền, tổ chức nhân dân chiến đấu, sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Các tổ chức thành viên của Mặt trận thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, có ảnh hưởng trong nước và ngoài nước.

Lực lượng vũ trang đã hình thành với ba thứ quân rõ rệt. Ngày 15-2-1961 các lực lượng vũ trang cách mạng được thống nhất thành Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Ngày 2-9-1961, Trung đoàn 1 bộ binh (lúc mới thành lập mang bí số C.56 sau đổi là Q. 761) được thành lập tại căn cứ Dương Minh Châu (miền Đông Nam Bộ). Đây là đơn vị chủ lực cơ động cấp trung đoàn đầu tiên của chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Tính đến cuối năm 1961, du kích, tự vệ có 100.000 người trong đó thanh niên chiếm 80% (70.000 ở Nam Bộ, 30.000 ở khu V). Nhiều xã vùng giải phóng thành lập được trung đội du kích tập trung, sử dụng một số súng thu được của địch và vũ khí tự tạo. Du kích tự vệ là lực lượng lòng cốt của phong trào đấu tranh chính trị ở xã, ấp, là lực lượng phối hợp chiến đấu quan trọng và nguồn bổ sung thường xuyên cho các đơn vị vũ trang tập trung. Bộ đội địa phương tỉnh, huyện và bộ đội chủ lực khu có 24.500 cán bộ, chiến sĩ. Mỗi huyện đều tổ chức được 1 trung đội bộ đội địa phương, có huyện tổ chức đến đại đội. Mỗi tỉnh có 1 đến 2 đại đội. Bộ đội chủ lực thuộc các quân khu có 11 tiểu đoàn.

Hoạt động của Đoàn và phong trào thanh niên sau đồng khởi có bước phát triển mới. Tất cả các xã vùng giải phóng và vùng tranh chấp đều có chi đoàn hoặc xã đoàn, nhiều nơi hình thành cấp huyện và cấp tỉnh. Hội liên hiệp thanh niên giải phóng thành lập và phát triển là thành viên trong Mặt trận dân tộc giải phóng. Phong trào thanh niên sôi nổi, đi đầu trên nhiều lĩnh vực công tác. Năm 1962 tại Liên khu V, trong đợt 1 tuyển quân đã có 2.600 thanh niên xung phong tòng quân. Xã Hòa Hiệp, huyện Tuy Hòa, (Phú Yên) từ đồng khởi đến năm 1962 đã có 200 thanh niên tòng quân, 400 thanh niên vào du kích. Tính chung lực lượng vũ trang toàn khu từ huyện trở lên có tới 85% là thanh niên, 95% du kích là nam nữ thanh niên. Phong trào chiến tranh du kích phát triển. Hai nữ đoàn viên thanh niên Tạ Thị Kiều (xã An Thạnh) và út Tuyết (xã Đa Phước) tỉnh Bến Tre đã phối hợp hiệp đồng, dùng mưu lấy 2 đồn giặc, thu vũ khí, bắt tù binh. Chị Tạ Thị Kiều được tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang quân giải phóng miền Nam”. ở Giồng Trôm (Bến Tre), Lê Văn Chính sáng tạo các kiểu đánh địch, bố trí trận địa toàn vũ khí thô sơ, hầm chông cạm bẫy, lựu đạn già, mìn tự tạo cùng ong vò vẽ diệt một lúc 20 tên ngụy. Tại Cà Mau, đoàn viên Nguyễn Việt Khái, đội trưởng du kích xã Tân Hưng Tây đã dũng cảm đón lõng, chờ cho máy bay địch xuống thấp, với 8 viên đạn các bin, anh đã bắn rơi 2 máy bay địch và bắn bị thương hai chiếc khác. Chiến công của anh đã mở ra phong trào dùng súng trường bắn máy bay địch trong các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Nguyễn Việt Khái được tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang quân giải phóng miền Nam”. ở Tân Trụ (Long An), trung đội trưởng du kích Huỳnh Văn Đảnh, với 73 viên đại hạ mấy chục tên địch. Tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ miền Nam năm 1962 là chiến công của 10 dũng sĩ Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Ngày 20-4-1962, 7 chiến sĩ đặc công do tiểu đội trưởng Lê Tấn Hiển và tiểu đội phó Võ Như Hưng chỉ huy, cùng với 3 cán bộ của huyện ủy Điện Bàn về phát động quần chúng ở xã Điện Ngọc. Địch phát hiện, huy động 1 tiểu đoàn biệt kích và nhiều dân vệ bao vây tiến công. Để bảo vệ tài sản và tính mạng của nhân dân, các anh vừa chiến đấu vừa rút ra ngoài cánh đồng, cố thủ tại một giếng đìa cạn, đánh địch từ 8 giờ sáng tới chiều tối, diệt hơn 100 tên, bên ta có 3 đồng chí hy sinh. Lợi dụng đêm tối, 2 đồng chí nghi binh đánh lạc hướng địch, chôn cất tử sĩ xong đưa thương binh và toàn đội rút về nơi an toàn. Cả 10 người đều là đoàn viên thanh niên. Trận chiến đấu của họ trở thành huyền thoại về 10 dũng sĩ Điện Ngọc anh hùng. Tiểu đội phó Võ Như Hưng về sau chiến đấu nhiều trận, diệt 54 tên địch, bắt sống 9 tên Mỹ, thu 12 súng, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh và anh dũng hy sinh. Ngày 5 - 5 - 1965 Võ Như Hưng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Từ năm 1961 đến năm 1964, ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long mỗi tỉnh còn có hàng ngàn thanh niên tình nguyện lên miền Đông tham gia bộ đội chủ lực miền, đông nhất là các tỉnh Long An, Mỹ Tho, Bến Tre. Các tỉnh miền Tây như Cần Thơ, Cà Mau, Hà Tiên, Rạch Giá... lựa chọn thanh niên là xã đội trưởng, xã đội phó có thành tích, các trung đội trưởng du kích dày dạn kinh nghiệm đưa về miền Đông để đào tạo thành cán bộ chỉ huy. Riêng tỉnh Rạch Giá trong hai năm 1961 - 1962 đã gửi 2.000 thanh niên lên miền Đông. Phong trào thanh niên tòng quân đã góp phần làm thay đổi tương quan lực lượng quân sự giữa ta và địch. Năm 1960, tỉ lệ 1/17, thì năm 1961 là 1/10 và càng rút ngắn trong những năm sau. Chiến tranh du kích phát triển mạnh trên cả ba vùng chiến lược.

Để có vũ khí cung cấp cho lực lượng vũ trang, đầu năm 1962, những chiếc tàu “không số” đầu tiên lần lượt chở “hàng quân sự” vào Cà Mau. Tháng 3 - 1962, chuyến tàu chở vũ khí do đồng chí Bông Văn Dĩa phụ trách di chuyển trinh sát, mở đường mòn Hồ Chí Minh trên biển từ Bắc vào Nam đã cập bến an toàn ở Rạch Gốc, xã Tân An, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Đồng chí Bông Văn Dĩa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Trung tuần tháng 8-1962, Quân ủy Trung ương thông qua Nghị quyết mở đường vận chuyển chiến lược trên biển. Đoàn 759 bước vào giai đoạn vận chuyển đầy bí mật, bất ngờ, viết nên những trang anh hùng về con đường huyền thoại trên biển Đông - đường Hồ Chí Minh trên biển, góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.

Trong hai tháng cuối năm 1962, bốn chuyến tàu “không số” đã đưa được 111 tấn vũ khí cho khu 9, cập bến ở Cà Mau an toàn.

Tháng 5-1961, Quân khu Sài Gòn - Gia Định được thành lập, chỉ một thời gian ngắn đã có 20.000 thanh niên thành phố xin gia nhập lực lượng vũ trang, đánh địch trên mọi chiến tuyến. Ngày 26-3-1961, Ban cán sự sinh viên, học sinh Sài Gòn thành lập “Đội vũ trang quyết tử” gồm thanh niên công nhân thợ tiện và anh Hà Văn Hiền lãnh đạo. Ra quân trận đầu, đội diệt tên Uyliam Tômát, chuyên viên cao cấp không quân Mỹ tại đường Ngô Thời Nhiệm. Tiếp đó, đội tập kích bằng lựu đạn vào trụ sở cơ quan USOM của Mỹ trên đường Trần Hưng Đạo, làm 7 tên chết và bị thương, cùng nhiều trận đánh khác. Đặc biệt đội đã nghiên cứu, chuẩn bị công phu, tổ chức diệt tên đại sứ Mỹ Nâutinh trên đường Páttơ, thủ pháo rớt đúng chỗ ngồi của Nâutinh nhưng kíp lâu ngày bị ẩm không phát nổ. Nâutinh thoát chết, nhưng đã gây tiếng vang lớn. Do sơ suất, chúng theo dõi bắt được Lê Hồng Tư và một số đồng chí, đồng đội của anh. Tiếp đó, tháng 8-1961 căn cứ của ban cán sự ở Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa bị địch phát hiện, chúng bất ngờ vây đánh, đồng chí Trần Quang Cơ, Bí thư Ban cán sự hy sinh, 2 đồng chí Lê Quang Vịnh và Lê Văn Dung bị bắt.

Ngày 24-5-1962, chính quyền Ngô Đình Diệm đưa các anh Lê Hồng Tư, Lê Quang Vịnh, Lê Văn Thành, Huỳnh Văn Chín cùng 8 đồng chí khác ra xử, với tội danh “chống lại cuộc bầu cử và mưu sát đại sứ Mỹ Nâutinh”. Trước tòa án địch, anh Lê Hồng Tư đã nói: “Tôi rất tiếc không đủ lựu đạn để giết hết những tên cầm đầu bọn xâm lược”. Các anh bị kết án tử hình, còn người thấp nhất là 5 năm tù. Tòa tuyên án vừa dứt, các anh đồng thanh hô to: “Đả đảo luật phát xít của ngụy quyền miền Nam”, “Đả đảo phát xít”, “Đả đảo đàn áp” rồi cất tiếng hát vang bài “Giải phóng miền Nam” trên đường từ tòa án về nhà giam. Phiên tòa đã gây xôn xao dư luận Sài Gòn, phong trào chống vụ án 24-5 từ Sài Gòn lan đến nhiều địa phương khác.

Đánh dấu sự phát triển của phong trào cách mạng, ngày 16-2-1962, Đại hội lần thứ nhất Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bầu Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch, Đại hội công bố 4 chủ trương cứu nước khẩn cấp:

1. Đế quốc Mỹ phải đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam.
2. Giải tỏa toàn bộ “ấp chiến lược”.
3. Thành lập ở miền Nam một Chính phủ Liên hiệp dân tộc.
4. Thực hiện đường lối ngoại giao hòa bình trung lập.

Chính quyền Kennơđi, sau gần một năm thăm dò, đầu năm 1962, mới quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” mà xương sống của nó là kế hoạch Stalây-Taylo. Để hỗ trợ cho kế hoạch bình định này, năm 1962, Mỹ-Diệm đã tiến hành 2.577 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên (gấp hai lần năm 1961).

Năm 1962, Mỹ ngụy dự định lập 16.000 “ấp chiến lược” trên toàn miền Nam. Nhưng đến hết 9 tháng chỉ lập được 3.225 ấp, đến cuối năm cũng chỉ lập được 3.900 ấp. Cùng thời gian trên, toàn miền Nam đã có 2.665 lần nhân dân nổi lên phá “ấp chiến lược”, 463 ấp bị phá hoàn toàn, 115 ấp được xây dựng thành “ấp chiến đấu”.

Hòa nhịp với đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị cũng phát triển thành một phong trào rộng lớn, mãnh liệt, thu hút mọi tầng lớp nhân dân ở miền Nam. Bằng những hình thức và phương pháp đấu tranh thích hợp, mọi người già, trẻ, trai, gái đều xông lên, mặt đối mặt với kẻ thù. Trong cuộc đấu tranh trực diện với địch, chống cào nhà, gom dân, lập “ấp chiến lược”, phải kể đến vai trò nữ thanh niên. Điển hình là phân đoàn nữ thanh niên xóm Bàu Mây, ấp An Đước, xã An Tịnh do phân đoàn trưởng Bảy Trinh cùng 10 đoàn viên làm trụ cột, đấu tranh giằng co quyết liệt với địch liên tục 60 ngày đêm, chống cào nhà, gom dân thắng lợi. Những đội quân chính trị hùng hậu của quần chúng đã góp phần làm thất bại nhiều cuộc hành quân càn quét của địch, cản trở và phá vỡ kế hoạch “ấp chiến lược”, bảo vệ tài sản và tính mệnh của nhân dân. Lực lượng đó đã vận động hàng vạn binh sĩ và nhân viên ngụy quyền trở về với nhân dân.

Ở nông thôn, đấu tranh chính trị nhằm chống càn quét, gom dân, lập ấp và khi địch lập ấp được thì đấu tranh phá ấp chiến lược. Ở thành thị, đấu tranh chính trị đòi cải thiện đời sống, chống tăng thuế, đuổi nhà, chống bắt lính, chống lập “khóm chiến lược”...

Năm tháng đầu năm 1962, công nhân Sài Gòn tiến hành 82 cuộc đấu tranh. Nổi bật nhất là cuộc bãi công của 800 công nhân hãng dệt Vimitếc (tháng 2-1962), của 5.000 công nhân cao su đấu tranh kéo dài 6 tháng, của 3 vạn học sinh, sinh viên biểu tình, mít tinh, bãi khóa, hội thảo chống Mỹ-ngụy. Hàng vạn người tham gia phong trào chống địch kết án Giáo sư Lê Quang Vịnh,v.v...

Kế hoạch Stalây-Taylơ năm 1962 mở đầu coi như thất bại, đầu năm 1963 Mỹ-Diệm bổ sung kế hoạch cứu nguy (mật danh A.D.6), với ý đồ trong năm 1963-1964 sẽ liên tục mở các cuộc hành quân “dồn bộ đội địa phương và du kích Việt cộng vào thế chạy dài, tránh né vĩnh viễn”. Sau đó tổng tiến công chiến lược, tiêu diệt các “mật khu” Việt cộng gồm 13 điểm ở đồng bằng sông Cửu Long, 17 điểm ở Đông Nam Bộ và các mật khu tiếp giáp giữa các tỉnh miền Trung và cao nguyên.

Kế hoạch A.D.6 chưa kịp triển khai, đầu năm 1963, Mỹ-Diệm đã bị một đòn choáng váng bất ngờ tại ấp Bắc, xã Tân Phú Trung, huyện Cai Lậy, cách thị xã Mỹ Tho 16 kilômét. Phát hiện có chủ lực của ta tại đây, tướng P.Hakin trực tiếp vạch kế hoạch mở cuộc hành quân “Đức Thắng 1/13” nhằm tiêu diệt chủ lực Việt cộng. Lực lượng ta ở đây có 2 đại đội chủ lực (đại đội 1 tiểu đoàn 514 của tỉnh Mỹ Tho; đại đội 1 của tiểu đoàn 216 của khu 8), 1 trung đội trợ chiến, 1 trung đội bộ đội địa phương huyện Châu Thành và 1 trung đội du kích xã.

Cuộc hành quân do sư đoàn trưởng sư đoàn 7 chỉ huy, có các cố vấn Mỹ đi kèm. Sáng 2-1-1963, sau khi Hakin cho pháo và máy bay oanh kích, địch mở 13 đợt tiến công mà không vào được làng. Chiều tối, y buộc phải cho lùi quân ra lộ 4 chỉnh đốn để sáng 3-1 sẽ mở trận tiến công quyết định. Nhưng đêm ngày 2 rạng ngày 3-1-1963, nhân dân và bộ đội, du kích đã bí mật rút ra khỏi ấp về căn cứ an toàn; chiến thuật “phượng hoàng vồ mồi” đã kết thúc thảm hại với 450 tên chết, có 9 cố vấn Mỹ, 5 trực thăng bị bắn rơi, 11 chiếc khác bị thương, 3 M113 cháy trụi và 1 tàu chiến bị bắn chìm.

Ấp Bắc là trận đánh đầu tiên trên địa hình đồng bằng với 1 chọi 10, ta đã đánh thắng địch có vũ khí mạnh, quân đông, sử dụng chiến thuật tân kỳ “trực thăng vận” và “thiết xa vận”, con chủ bài của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.

Cùng với quân dân Ấp Bắc, ngày 2 và ngày 3-1-1963, quân và dân Châu Thành, Cai Lậy, thị xã Mỹ Tho đã nhất tề nổi dậy tiến công địch, diệt đồn bốt, đánh giao thông, phá “ấp chiến lược”. Hàng nghìn đồng bào nông thôn kéo vào thị xã Mỹ Tho “tản cư ngược”, một hình thức đấu tranh, làm ùn tắc giao thông, ngăn cản quân địch đi tăng viện, vây kín các trận địa pháo. Dòng người tràn ngập thị xã, đòi tin tức chồng, con, đòi không được bắn pháo, càn quét thôn ấp... làm hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền hoang mang, không dám đàn áp, phải kéo lực lượng đang hành quân càn quét về bảo vệ thị xã.

Chiến thắng Ấp Bắc đã cổ vũ mạnh mẽ tuổi trẻ miền Nam hưởng ứng phong trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công” trên khắp các chiến trường. Tại khu 8, kết thúc đợt một (năm 1963) đã phá 135 ấp chiến lược, bức rút 207 đồn, bốt, diệt 2.600 tên địch, vận động 6.000 binh sĩ ngụy quay về với nhân dân, 51.300 thanh niên nam nữ gia nhập dân quân du kích.

Lực lượng vũ trang địa phương phát triển nhanh. Năm 1963, bộ đội địa phương tỉnh đã tăng lên gấp đôi so với năm 1962, (64.000 quân so với 30.500 quân), du kích cũng tăng hơn 10.000 người; đảng viên, đoàn viên đều tham gia chiến đấu trong lực lượng vũ trang nên đã lôi cuốn đông đảo các tầng lớp quần chúng già, trẻ, trai, gái, trong cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn.

Mỗi người dân đều biết dùng vũ khí thô sơ, tự tạo, làm chông mìn, cạm bẫy đánh địch. ở Nam Bộ năm 1963 số địch chết bằng vũ khí thô sơ là 27%. Xã Đông Phương, thị xã Cần thơ, 90% dân vào du kích. Bến Tre, có sáng kiến đầu tiên dùng ong vò vẽ kết hợp súng ngựa trời đánh đồn Anh Dinh, chống địch đi càn. Trong năm 1963, Bến Tre đã đặt hơn 4.500 tổ ong vò vẽ chống địch trên 71 xã.

Du kích Cà Mau dùng cách “bao vây, đánh lấn” chặn nguồn nước, cắt tiếp tế, bắt rút nhiều đồn bốt dọc các sông Cái Tàu, Cái Lớn, sông Trẹm, Đầm Dơi, giải phóng nhiều vùng.

Một phong trào săn máy bay lên thẳng, diệt M.113 được phát động rộng khắp. Tổng số máy bay bị hạ trong năm 1963 là 690 chiếc, xe cơ giới bị diệt là 800 xe.

Ngày 9-9-1963, ở Nam Bộ diễn ra trận tiến công chi khu quân sự Cái Nước-Đầm Dơi (Cà Mau). Bộ đội chủ lực Quân khu IX loại 558 tên địch, thu 200 súng. Cũng trong tháng 9, ta tập kích sân bay Sóc Trăng, phá 30 máy bay. Ngày 23-11 bộ đội địa phương tỉnh phối hợp với đặc công đánh căn cứ huấn luyện biệt kích Đức Hòa (Long An) diệt và bắt sống 170 tên, có 13 tên Mỹ, thu 540 súng. Ngày 31-12-1963, trong trận đánh vận động xuất sắc ở Đường Long (Bến Cát, Thủ Dầu Một), ta diệt gọn tiểu đoàn 32 biệt động “Cọp đen” khét tiếng tàn ác, thu 300 súng, mở đầu những trận đánh tiêu diệt quy mô ngày càng lớn của quân giải phóng.

Ở khu V Tây Nguyên, chiến tranh du kích phát triển khá mạnh. Tại nhiều khu vực ở Bắc ái, Ninh Thuận, Gia Lai, Kon Tum, miền Tây Trị Thiên, du kích vừa đánh địch vừa sản xuất, làm chủ buôn làng.

Lực lượng chủ lực Quân khu V đã khắc phục rất nhiều khó khăn về lương thực, vũ khí, mở hai đợt hoạt động mạnh. Ngày 3-1-1963, bộ đội đặc công tập kích vào trung tâm huấn luyện biệt kích Plâymơnông (Plâycu) giết và làm bị thương 250 tên địch (có 11 tên Mỹ), bắt sống 140 tên, thu 100 súng các loại. Tháng 4-1963, ta lại tập kích vào căn cứ pháo binh ngụy đóng ở Long Lếch (Tây Giá Vụt, Quảng Ngãi), diệt 1 đại đội pháo, thu vũ khí.

Năm 1963, ta đánh 24.600 trận lớn nhỏ, diệt vào làm bị thương, bắt sống trên 7,8 vạn tên địch, có 600 tên Mỹ, bắn rơi và phá hủy 609 máy bay, phá hàng trăm xe thiết giáp và xe vận tải. Cách đánh cũng được nâng cao. Đánh đồn bốt, căn cứ nhiều hơn trước: trên 800 đồn bốt bị diệt, bức hàng, bức rút. Cách đánh giao thông thủy, bộ được chú trọng; 34 đoàn xe lửa bị lật, 236 tàu xuồng bị đánh chìm, đánh hỏng; thu được hơn 1 vạn súng các loại, có cả pháo 105mm.

Đấu tranh vũ trang được đẩy mạnh, phong trào phá “ấp chiến lược” càng có điều kiện giành nhiều thắng lợi hơn. Trên toàn miền Nam, năm 1963 đã có 34 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị phá “ấp chiến lược”, phá hoàn toàn 2.895 ấp (sau khi phá đi, phá lại 5.950 lần) trong số 6.164 ấp chúng lập được. Ta đã phá được thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở 12.000/17.000 thôn, giải phóng 5/14 triệu dân trên toàn miền Nam. Hơn 1,5 triệu ha/3,5 triệu ha ruộng đất lại về tay nông dân; hơn 23.000 thanh niên đã tòng quân đánh giặc. Hàng nghìn “ấp chiến lược” biến thành làng chiến đấu của ta. Nhân dân các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Long An, Tây Ninh, Phú Yên, Bình Định đã có thành tích xuất sắc trong phong trào phá “ấp chiến lược”.

Do tác động của đấu tranh vũ trang và phong trào phá “ấp chiến lược” ở các vùng nông thôn, phong trào đấu tranh chính trị của công nhân, nhân dân lao động, học sinh, sinh viên, tín đồ Phật giáo... ở đô thị phát triển rộng khắp. Tháng 3-1963, tại Thuận An (Huế), Hội Liên hiệp sinh viên, học sinh Trung Trung Bộ đã được thành lập. Ngày 17-3, Đoàn sinh viên phật tử Huế ra đời, quy tụ đông đảo sinh viên yêu nước tiến bộ. Nổi bật trong phong trào đô thị thời gian này là cuộc đấu tranh của tín đồ Phật giáo.

Lúc đầu là đấu tranh bảo vệ đạo Phật nhưng vì bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp, lại được sự ủng hộ của lực lượng cách mạng và các tầng lớp nhân dân, cuộc đấu tranh đã chuyển thành một phong trào chính trị rộng lớn. Ngày 7-5-1963, Ngô Đình Diệm ra lệnh hạ cờ Phật trong dịp lễ Phật đản. Tăng ni, Phật tử và nhân dân Huế xuống đường phản đối, bị địch đàn áp dã man. Tối 8-5-1963, hơn 10.000 học sinh, sinh viên và nhân dân đến Đài phát thanh Huế phản đối ngụy quyền không tường thuật lễ Phật đản trên đài, chúng cho xe cứu hỏa, xe tăng và binh lính nổ súng bắn chết 8 người (5 là học sinh). Ngày 10-5, tại chùa Từ Đàm, Phật giáo đưa ra 5 nguyện vọng đòi chấm dứt kỳ thị tôn giáo. Ngày 14-5-1963, ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố kêu gọi nhân dân cả nước và nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào Phật giáo. Mặc dù bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp, nhiều tín đồ bị chết, bị thương, bị bắt, phong trào vẫn bùng lên, lan rộng.

Tại Sài Gòn, sinh viên, học sinh bãi khóa, xuống đường ủng hộ cuộc đấu tranh của bà con Phật giáo, chống chế độ độc tài gia đình trị của Ngô Đình Diệm. Ngày 11-6-1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng để phản đối ngụy quyền Sài Gòn đàn áp Phật giáo. Ngày 16-6, hàng trăm ngàn tín đồ, thanh niên, sinh viên, học sinh và nhân dân Sài Gòn dự lễ tang Hòa thượng Thích Quảng Đức. Ngày 25-8, 5.000 học sinh Sài Gòn biểu tình tại chợ Bến Thành, cảnh sát xả súng vào đoàn nữ sinh áo trắng đi đầu, chị Quách Thị Trang, học sinh Trường Trường Sơn trúng đạn hy sinh tại chỗ. Phong trào đấu tranh bùng lên quyết liệt.

Trước hành động đàn áp cực kỳ tàn bạo của Mỹ - Diệm đối với đồng bào miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra tuyên bố lên án tội ác của chúng. Người chúc đồng bào miền Nam: Đoàn kết, đấu tranh, thắng lợi.

Sau một năm rưỡi thực hiện kế hoạch Xtalây-Taylo vẫn không cứu vãn được tình thế nguy ngập của ngụy quân, ngụy quyền, Mỹ cho rằng nguyên nhân chính của tình hình đó là do bọn tay sai Ngô Đình Diệm bất tài, bất lực.

Phong trào cách mạng miền Nam phát triển như vũ bão sau đồng khởi, làm cho mâu thuẫn Mỹ - Diệm càng thêm gay gắt, buộc Mỹ phải đi đến quyết định lật đổ Diệm, đưa bọn tay sai khác lên, thực hiện tiếp kế hoạch chiến tranh của Mỹ.

Ngày 1-11-1963, thông qua bọn tướng lĩnh tay sai do Dương Văn Minh cầm đầu, Mỹ tiến hành cuộc đảo chính ở Sài Gòn. Hai anh em Diệm - Nhu bị bọn đảo chính giết chết, nhưng Mỹ - Ngụy lại bước vào giai đoạn khủng hoảng chính trị triền miên.

Ngày 2-11-1963, ngay sau khi Diệm - Nhu bị lật đổ, gần một triệu thanh niên, học sinh, sinh viên Sài Gòn - Gia Định đã tổ chức thành 20 đoàn biểu tình đi qua các phố với những khẩu hiệu: “Đánh đổ chế chộ độc tài phát xít”, “Phải thực hiện tự do, dân chủ”, “Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam”,v.v... Đoàn biểu tình đã tiến vào trụ sở Quốc hội ngụy, Bộ Lao động dân vụ, Nha Thông tin, dinh Gia Long và đốt bốt Lê Văn Ken, truy lùng bọn ác ôn để trả thù cho chị Quách Thị Trang và những người bị chúng sát hại.

Qua phong trào, lực lượng cách mạng trong các trường học đã có bước phát triển mới, nhiều trường đã có chi đoàn thanh niên, chi bộ Đảng. Trường Pétrus Ký đã tổ chức công khai lễ kỷ niệm anh Trần Văn Ơn (9-1-1964) và đấu tranh chống tăng thu học phí trường công đạt thắng lợi.

Ngày 30-1-1964, Nguyễn Khánh đảo chính lật đổ Dương Văn Minh. Với đội ngũ được nhân lên mạnh mẽ hơn trước, phong trào thanh niên công nhân đã có sự phát triển mới cả về chiều rộng và chiều sâu, cùng với phong trào học sinh, sinh viên tạo thành một làn sóng đấu tranh mạnh mẽ ở các đô thị miền Nam. Từ đầu năm 1964, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, mà nòng cốt là tuổi trẻ các nhà máy, xí nghiệp đã liên tục nổ ra dưới các hình thức như bãi công, xuống đường, đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống đàn áp, sa thải công nhân,v.v... Đó là cuộc đấu tranh của 7000 công nhân bốc vác của hãng Stic, Xôvicôtina, cảng Sài Gòn... Tháng 5-1964, 12.000 công nhân lái xe tắc-xi đấu tranh chống Mỹ giết hại anh Nguyễn Văn Bảy và 2 công nhân lái xe tắc-xi khác. Sau đám tang những công nhân lái xe tắc-xi bị sát hại, “Tuần lễ tẩy chay Mỹ”, đón đánh tiêu diệt lính Mỹ trên đường phố Sài Gòn - Gia Định nổ ra liên tiếp. Đặc biệt là cuộc đấu tranh kéo dài của thanh niên và công nhân Xí nghiệp Dệt Vimytex bắt đầu từ 17-4-1964, chống chủ đuổi 151 công nhân diễn ra rất quyết liệt. Ngày 10-8-1964, ngụy quyền cho lính đến đàn áp làm bị thương hàng trăm người. Nhằm phối hợp với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, ngày 21-8-1964, 4000 thanh niên, sinh viên, học sinh Sài Gòn đã tổ chức hội thảo tẩy chay “Hiến chương Vũng Tàu” mà Nguyễn Khánh đã ký ngày 20-8, bán rẻ cảng Cam Ranh cho đế quốc Mỹ, đòi bãi bỏ lệnh thiết quân luật, đòi tự do ngôn luận, sau đó là cuộc xuống đường, phát động “Tuần lễ đấu tranh chống Hiến chương Vũng Tàu”. Cùng ngày, 5.000 học sinh, sinh viên tổ chức mít tinh ở trường Đại học Luật khoa, rồi kéo đến Bộ Thông tin ngụy đòi tự do báo chí. Ngày 22-8, sau một cuộc hội thảo, 4000 thanh niên, học sinh, sinh viên kéo đến bao vây chỗ ở của Nguyễn Khánh. Hưởng ứng phong trào đấu tranh của công nhân,thanh niên, học sinh, sinh viên Sài Gòn, ngày 24-8, tất cả các trường trung học ở Đà Nẵng đồng loạt bãi khóa. ở thành phố Đà Nẵng, 6 trường trung học xuống đường cùng với 30.000 đồng bào đình công, bãi chợ, tham gia biểu tình, tuần hành phản đối Mỹ - Khánh, đòi xóa bỏ “Hiến chương Vũng Tàu”. Bị bọn ác ôn đàn áp, làm chết một số người nên làn sóng đấu tranh càng lên cao, đoàn người kéo đến vây tòa thị chính, tên trung tá hải quân thị trưởng phải chạy trốn, tên thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh vùng 1 chiến thuật phải ra lệnh giới nghiêm, bắt giam hàng chục học sinh và những người biểu tình. Bất chấp lưỡi lê, súng đạn, tù đày, tuổi trẻ Đà Nẵng đã đi đầu, xông lên cùng đồng bào dùng gậy gộc, vỏ chai, đất đá tấn công bọn quân cảnh, cảnh sát, giải vây những người bị bắt. Anh chị em còn bao vây và chiếm tòa thị chính, làm chủ thành phố trong 9 ngày (từ 25-8 đến 3-9-1964), diệt 80 tên ác ôn, đốt cháy hàng trăm xe Mỹ. Sáng ngày 23-8, thanh niên, sinh viên, học sinh và đồng bào Sài Gòn lại xuống đường kéo đến Bộ Thông tin ngụy đưa yêu sách, đập phá Đài phát thanh. Sáng ngày 25-8-1964, hàng trăm nghìn học sinh, sinh viên, thanh niên và đồng bào các giới đã kéo đến đường Thống Nhất trước dinh Nguyễn Khánh. Đến trưa, lực lượng bao vây dinh Nguyễn Khánh đã lên tới 400.000 người, cả thành phố rầm rập khí thế đấu tranh. Đến 15 giờ, Nguyễn Khánh phải đứng ra nhận tội lỗi và tuyên bố rút lui chức Chủ tịch Việt Nam Cộng hòa do hắn tự phong, tuyên bố hủy bỏ “Hiến chương Vũng Tàu.

Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của thanh niên, công nhân xí nghiệp dệt Vimytex vẫn chưa đạt được yêu cầu. Ngày 13-9-1964, công nhân nha công chính, cảng Sài Gòn và các Nhà máy Tovicô, nhà máy ximăng đã ra tuyên bố ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy Dệt Vimytex. Ngày 18-9, công nhân ô tô buýt, công nhân cao su, gửi tiền ủng hộ công nhân Vimytex.

Phong trào đấu tranh chống chế độ độc tài quân phiệt Nguyễn Khánh năm 1964 là đỉnh cao của phong trào đấu tranh cách mạng ở thành thị, đã làm phá sản uy tín chính trị của Nguyễn Khánh - một tên tay sai gian xảo do Mỹ đưa lên, trong đó phong trào đấu tranh của thanh niên, học sinh, sinh viên đóng vai trò nòng cốt.

Đánh giá phong trào đấu tranh ở thành thị miền Nam lúc bấy giờ, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng ta đã viết: “Cuộc nổi dậy của nhân dân đô thị trong phong trào sinh viên, Phật giáo và nhân dân lao động để đánh đổ một Chính phủ tay sai ngoài ý muốn của Mỹ, cũng là hành động có tính chất bạo lực đi đến khởi nghĩa ở thành phố”.

Tháng 12-1963, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp hội nghị lần thứ 9, ra nghị quyết quan trọng về đường lối quốc tế và chủ trương lãnh đạo cách mạng miền Nam.

Tại Thủ đô Hà Nội, ngày 27-3-1964 Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Tại Hội nghị, Người đã đọc một bản báo cáo quan trọng. Sau khi kiểm điểm lại những sự kiện lớn trong 10 năm qua ở nước ta và thế giới, Người khẳng định nhân dân ta nhất định thắng, đế quốc Mỹ nhất định sẽ thất bại. Người kêu gọi: “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp đồng bào miền Nam ruột thịt”.

Đầu năm 1964, tướng Pôn Hakin mất chức, cũng là lúc cáo chung kế hoạch bổ sung A.D.6 mà ông ta là tác giả đưa ra thực hiện năm 1963.

Năm 1964, quân ngụy tăng lên trên nửa triệu, được trang bị tốt hơn, nhưng lại bị thua đau đơn, nặng nề hơn. Ta đánh địch ở tận Sài Gòn và các căn cứ, sào huyệt của Mỹ. Ngày 16-2-1964 tập kích rạp Kinh Đô diệt 150 sĩ quan Mỹ. Ngày 2-5-1964 đánh chìm tàu Cađơ trọng tải 15.000 tấn vừa cập bến Bạch Đằng với toàn bộ hàng hóa và 19 máy bay lên thẳng. Ngày 5-6-1964 khách sạn Caraven bị đánh sập, 100 sĩ quan Mỹ chết và bị thương. ngày 24-12 khách sạn Bơ rinh bị đánh mìn; sân bay Tân Sơn Nhất bị tiến công, sân bay Biên Hòa bị pháo kích, hỏng 17 máy bay có 5 chiếc B57. Các sân bay Đà Nẵng, Quy Nhơn, Plâycu cũng liên tiếp bị tiến công... Tại Sài Gòn, 30.000 thanh niên, học sinh, sinh viên và nhân dân biểu tình đả đảo Nguyễn Khánh.

Giữa lúc đó, Mỹ - ngụy đưa người chiến sĩ biệt động Sài Gòn Nguyễn Văn Trỗi, người đặt mìn trên cầu Công Lý giết hụt tên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara ra xử bắn làm dư luận cả nước và thế giới phẫn nộ. Ngày 15-10-1964 Nguyễn Văn Trỗi đã biến pháp trường thành diễn đàn lên án bọn Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. Nguyễn Văn Trỗi đã hô vang ba lần: “Hồ Chí Minh muôn năm”, nêu khí phách lẫm liệt của người anh hùng trẻ tuổi đi vào lịch sử trong 9 phút cuối cùng của đời mình. Biến căm thù thành hành động, Quảng Nam - Đà Nẵng quê hương anh, hơn 1.000 thanh niên đã xung phong vào bộ đội, 2.500 năm nữ thanh niên gia nhập dân quân du kích, thề lấy máu giặc rửa thù cho Nguyễn Văn Trỗi.

Năm 1964, với thế đứng vững mạnh trên chiến trường chính là Đông Nam Bộ và Khu V, nhiều trận đánh sử dụng cấp trung đoàn và tiêu diệt gọn từng tiểu đoàn địch ở chiến trường nào cũng có. Cuối năm 1964, hàng vạn chiến sĩ chủ lực “Ba sẵn sàng” vượt Trường Sơn vào tăng cường cho miền Nam. Bộ đội chủ lực Quân giải phóng có sự phát triển nhảy vọt trong tư thế sẵn sàng xuất trận. Hàng vạn thanh niên tình nguyện đi dân công phục vụ tiền tuyến, vận tải hàng ngàn tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, dự trữ vật chất đảm bảo cho bộ đội trên các chiến trường trọng điểm có thể chiến đấu liên tục trong nhiều tháng.

Ngày 7-12-1964, Quân khu V mở chiến dịch An Lão đánh điểm, diệt viện, loại khỏi vòng chiến đấu 700 tên, thu 300 súng, giải phóng quân lỵ và toàn huyện An Lão. Phối hợp với An Lão, tại Quảng Nam, Trung đoàn 1 tiến công cứ điểm Chóp Chài, diệt sở chỉ huy tiểu đoàn, 1 đại đội chủ lực ngụy, phá 2 pháo 105 ly. Các tỉnh khu V, lực lượng vũ trang hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá 1.485 “ấp chiến lược” vùng đồng bằng, 292 “ấp chiến lược” ở miền núi, giải phóng 123 xã. Đồng bào và thanh niên khu VI phá 3.000 trong tổng số 3.800 “ấp chiến lược” do địch lập ra.

Ở miền Đông Nam Bộ, ta mở chiến dịch Bình Giã từ 3-11-1964 đến 2-1-1965 với 5 trận đánh cấp trung đoàn, diệt gọn 2 tiểu đoàn chủ lực (có 1 tiểu đoàn dự bị chiến lược), đánh thiệt hại 7 tiểu đoàn khác, phá hàng loạt “ấp chiến lược”, giải phóng huyện Hoài Đức, 20 ngàn dân giành chính quyền làm chủ.

Quân khu V chuẩn bị mở chiến dịch, cần phải chuyển gấp 50 tấn vũ khí từ miền Bắc đưa vào bờ biển Lộ Diên (Bình Định), hàng ngàn thanh niên tình nguyện làm nhiệm vụ vận chuyển. Chị em nữ thanh niên thì nghi trang những thứ gọn nhẹ chuyển công khai ban ngày. Hàng nặng thì ban đêm nam thanh niên dùng sức người, xe bò kéo với tinh thần “vai trăm cân, chân vạn dặm” phục vụ kịp thời cho chiến dịch. Ngày 8-2-1965, chiến dịch mùa xuân đánh điểm, diệt viện tại Đèo Nhông (Phù Mỹ, Bình Định), diệt gọn 2 tiểu đoàn bộ binh, 1 chi đoàn xe bọc thép M113.

Được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhân dân nổi dậy phá hầu hết “ấp chiến lược” của địch ở Trung Bộ, giải phóng 2,5 triệu đân (trong số 3 triệu) ở nông thôn đồng bằng. Nhiều nơi, ngụy quyền cơ sở bị diệt, chính quyền nhân dân được thành lập, “ấp chiến lược” trở thành thôn xã chiến đấu của ta.

Đội quân ngụy, “xương sống của chiến tranh đặc biệt” đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Sau khi đi kiểm tra tình hình ở miền Nam, Mắc Namara phải thú nhận: Mỹ đã thất bại về quân sự ở Việt Nam. Còn Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam Oétmolen thì cho rằng: “Tình hình ở Việt Nam bị xấu đi hiện ra rõ rệt hơn bao giờ hết... Nếu chiều hướng này cứ tiếp diễn thì... tiến tới sự tiếp quản của Việt cộng ở đất nước này có lẽ nội trong một năm”.

Trước tình hình đó, Chính phủ Mỹ quyết định đưa một bộ phận lực lượng chiến đấu Mỹ vào miền Nam Việt Nam, dùng không quân đánh phá mạnh và liên tục đối với miền Bắc, đưa cuộc “chiến tranh đặc biệt” đến mức cao nhất; chuẩn bị để khi tình hình nguy ngập hơn sẽ đưa quân Mỹ vào tham chiến với quy mô lớn, thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”.

*
*   *

Được thử thách và rèn luyện trong cao trào cách mạng, tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên miền Nam nhanh chóng được khôi phục và phát triển. Cùng với các tổ chức quần chúng khác, sau khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời (20-12-1960), Hội Liên hiệp thanh niên giải phóng được thành lập, bao gồm Hội Liên hiệp sinh viên giải phóng, Hội Học sinh giải phóng và các tổ chức thanh niên yêu nước khác, tập hợp ngày càng đông đảo thanh niên, thiếu nhi dưới mọi hình thức tổ chức và đi vào hoạt động cách mạng.

Tổ chức Đoàn ở cơ sở, bị đánh phá ác liệt trong thời kỳ “Tố cộng”, “Diệt cộng” của Diệm, nay được các cấp ủy Đảng quan tâm lãnh đạo nên từng bước được củng cố và phát triển cả về số lượng và chất lượng. Cuối năm 1960, riêng ở Quảng Nam, Đà Nẵng đã có trên 100 chi đoàn với 1.295 đoàn viên và 13.000 hội viên Hội Liên hiệp thanh niên giải phóng. Đồng thời đã xây dựng được 47 phân đội thiếu niên tiền phong với 4.909 đội viên. Tính đến năm 1962, toàn miền Nam có 21.848 đoàn viên, sinh hoạt trong 880 chi đoàn thì đến năm 1963 đã phát triển lên 46.792 đoàn viên, sinh hoạt trong 1.375 chi đoàn và đến năm 1964, số đoàn viên đã lên tới 72.375 với 2.539 chi đoàn. So với năm 1961, thì tổ chức Đoàn và đoàn viên năm 1965, năm tổ chức Đại hội Đoàn toàn miền Nam lần thứ nhất, tăng hơn 4 lần 988.947 đoàn viên và 3.276 chi đoàn). Điều quan trọng là tổ chức Đoàn đã phát triển rộng khắp ở trong tất cả các vùng, các địa phương thành hệ thống từ cơ sở đến huyện, tỉnh và toàn miền Nam.

Hầu hết các tỉnh, thành phố, từ năm 1961 đều có ban cán sự Đoàn với số cán bộ chuyên trách từ 2 đến 3 đồng chí. Ban cán sự Đoàn thành phố Sài Gòn được hình thành sớm với nhiều đồng chí trưởng thành từ phong trào, do đồng chí Phạm Chánh Trực làm Bí thư. Vừa xây dựng tổ chức, các cấp bộ Đoàn từ huyện, tỉnh và miền vừa chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ Đoàn cơ sở. Vượt qua muôn ngàn khó khăn trong điều kiện địch đánh phá ác liệt, từ năm 1961 đến năm 1965 các cấp bộ Đoàn đã mở được 771 lớp huấn luyện, bồi dưỡng đào tạo được 24258 cán bộ từ chi đoàn đến huyện Đoàn, trong đó số cán bộ nữ chiếm 2/3.

Đội ngũ cán bộ Đoàn ngày càng được tăng cường là đảm bảo vững chắc cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên miền Nam phát triển. Nhiều cán bộ Đoàn các cấp đã kiên trì bám trụ cơ sở trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, ác liệt để gây dựng phong trào, xây dựng lực lượng. Nhiều đồng chí đã hy sinh anh dũng.

Trước sự phát triển của phong trào thanh niên và yêu cầu công tác Đoàn ở miền Nam. Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam đã quyết định thành lập Ban thanh niên miền Nam, có nhiệm vụ giúp Ban Bí thư theo dõi, chỉ đạo phong trào thanh niên miền Nam, đề xuất cử cán bộ tăng cường cho các tổ chức Đoàn ở miền Nam. Trong những năm 60, Ban Bí thư Trung ương Đoàn đã cử nhiều đợt cán bộ Đoàn vào miền Nam công tác, phần lớn là những đồng chí có phẩm chất, năng lực, nhiệt tình, giữ các trách nhiệm chủ chốt từ huyện trở lên. Nhiều đồng chí đã hy sinh anh dũng trong khi thực hiện nhiệm vụ.

Qua 10 năm chiến đấu vô cùng oanh liệt với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai phản động, tuổi trẻ miền Nam đã không quản ngại gian khổ, hy sinh, lớp này ngã, lớn khác đứng lên, tiếp tục đương đầu với mọi thử thách cùng nhân dân đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, góp phần đưa cách mạng đi lên giành thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Với những cống hiến xuất sắc và to lớn cho sự nghiệp cách mạng, Đoàn và tuổi trẻ miền Nam “Thành đồng Tổ quốc” xứng đáng nhận phần thưởng cao quý của Đảng và Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam trao tặng: Huân chương Thành đồng hạng Nhất và hai lá cờ mang dòng chữ: “Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, vì thống nhất Tổ quốc, thanh niên miền Nam anh dũng tiến lên” và “Đoàn kết, xung phong, anh dũng, quyết thắng”.

Liên kết website