Chương IV

THANH NIÊN CẢ NƯỚC HĂNG HÁI THAM GIA BẢO VỆ, XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG


Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Nhà nước dân chủ, Nhà nước công nông đầu tiên trong lịch sử dân tộc và ở Đông Nam châu Á. Vừa mới ra đời, Nhà nước cách mạng non trẻ đã phải đương đầu ngay với thù trong, giặc ngoài, với muôn vàn khó khăn trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt, khôn khéo, tài tình và kiên quyết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vượt qua mọi thác ghềnh, nền độc lập vừa giành được chẳng những không bị thủ tiêu, trái lại đã đứng vững trong những hoàn cảnh hết sức hiểm nghèo. Nhờ vậy, ít lâu sau nhân dân và tuổi trẻ Việt Nam đã bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ với tư thế của người làm chủ đất nước.
Sau khi giành được độc lập, vấn đề cơ bản nhất đặt ra cho Đảng và nhân dân ta là giữ vững chính quyền trước sự tiến công điên cuồng của kẻ thù cùng những thế lực nguy hiểm, từng bước xây dựng chế độ mới, đưa cách mạng vững bước tiến lên.
Trên đất nước Việt Nam chưa bao giờ có nhiều kẻ thù như lúc này. Ở miền Bắc, từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9 - 1945, khoảng 200.000 quân Tưởng Giới Thạch dưới danh nghĩa quân Đồng Minh tràn vào chiếm đóng Thủ đô Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16. Chúng tập hợp tất cả các lực lượng phản cách mạng trong Việt quốc, Việt cách, bọn Đại Việt, bọn Tờrốtkít cùng bọn phản động trong giai cấp địa chủ, tư sản, trong các tôn giáo... để chống phá, lật đổ chính quyền cách mạng.
Ở miền Nam, ngày 23-9, quân Pháp được quân Anh, quân Nhật yểm trợ, bắt đầu nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi mở rộng dần các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ, bọn Tờrốtkít, bọn phản động trong các giáo phái... nhảy ra làm tay sai cho Pháp.
Nhà nước ta đứng trước tình hình cực kỳ khó khăn, thiếu thốn từ tài chính, lương thực đến vũ khí, thuốc men... nền kinh tế của đất nước vốn nghèo nàn, lạc hậu lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ dẫn đến nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm 2 triệu người chết; 50% ruộng đất ở đồng bằng Bắc Bộ bị bỏ hoang, sản xuất công nghiệp đình đốn, hàng vạn công nhân không có việc làm, nền tài chính khánh kiệt, kho bạc trống rỗng.
Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã vạch ra những phương hướng và biện pháp đầu tiên để xây dựng chế độ mới và đối phó với các lực lượng đế quốc và phản động tiến vào đất nước ta. Theo phương hướng đó, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ và nêu ra 6 việc cấp bách cần làm ngay.
Tiếp đó, trong bức thư gửi cho bà con nông dân cả nước, Hồ Chủ Tịch lại nêu lên hai nhiệm vụ cấp bách trước mắt:
“Hiện nay chúng ta có hai việc quan trọng nhất: cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam... Vì cứu quốc, các chiến sĩ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc, nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng...
Ngày 25-11-1945, Ban Thường vụ Trung ương ra chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc, Chỉ thị đề ra nhiệm vụ chủ yếu của Cách mạng Việt Nam lúc này là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân...
Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng đã phát động phong trào quần chúng tăng gia sản xuất, chống đói, phong trào chống nạn mù chữ. Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Bộ, Đảng phát động phong trào toàn dân kháng chiến ở miền Nam và cả nước ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam.
Hưởng ứng lời kêu gọi chống giặc đói của Hồ Chủ tịch, Đoàn Thanh niên Cứu quốc động viên đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia các cuộc vận động lạc quyên cứu đói, hưởng ứng “Hũ gạo cứu đói”, ngày đồng tâm nhịn ăn... để giúp đồng bào bị đói.
Mở đầu phong trào tăng gia sản xuất, Hồ Chủ tịch kêu gọi:
“Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của chúng ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”.
Với khẩu hiệu “Không một tấc đất bỏ hoang”, “Tấc đất, tấc vàng”, phong trào thi đua sản xuất dấy lên ở khắp các vùng nông thôn, đồng bằng, trung du, miền núi và ở cả các thành phố, thị trấn. Hàng nghìn đoàn viên, thanh niên tổ chức thành những đội sản xuất đi khai hoang, phục hóa ruộng đất, bảo vệ đê điều, trồng các cây lương thực ngắn ngày: Tại Hà Nội, thanh niên tận dụng từng bãi đất nhỏ ven công viên, các bãi bồi ven sông Hồng đến những thửa ruộng hoang hóa ở ngoại thành để trồng lúa, trồng màu, Đoàn còn tổ chức các đội thanh niên đi về nông thôn, lên miền trung du, miền núi để tham gia sản xuất lương thực... Những hoạt động tích cực của đoàn viên, thanh niên đã góp phần nhanh chóng khôi phục sản xuất nông nghiệp, đẩy lùi nạn đói.
Để thiết thực giúp Chính phủ giải quyết khó khăn to lớn về tài chính, Đoàn đã động viên đoàn viên, thanh niên đi đầu tuyên truyền, vận động xây dựng “Quỹ độc lập” và “Tuần lễ vàng”. ở các tỉnh, thành trong cả nước nhất là tại Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng... thanh niên đã góp phần tích cực vào việc động viên, cổ vũ lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân. Kết quả là đã quyên góp được cho Nhà nước 370 kilôgam vàng trong “Tuần lễ vàng” và 20.000.000 đồng vào “Quỹ độc lập”.
Đồng thời với những thắng lợi bước đầu trên mặt trận kinh tế, tài chính, chính quyền cách mạng đã có những cố gắng lớn và giành được nhiều thành tích trên lĩnh vực văn hóa. Sau Cách mạng Tháng Tám, một trong những việc mà Hồ Chủ tịch quan tâm là phát động một cao trào toàn dân chống nạn mù chữ để mở mang kiến thức cho nhân dân lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”. Người nhắc nhở toàn dân hăng hái tham gia dạy và học chữ quốc ngữ: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ... Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết... Vợ chưa biết thì chồng bảo... cha mẹ không biết thì con bảo... phụ nữ lại càng phải học”. Người giao nhiệm vụ cho thanh niên: “Công việc này, mong anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức”.
Thanh niên là lực lượng nòng cốt trong phong trào diệt dốt. Ở Hà Nội, hơn 2.000 đoàn viên, thanh niên, phần lớn là học sinh, sinh viên tình nguyện làm giáo viên các lớn bình dân học vụ. Trong một thời gian ngắn, có 74.957 lớp học được tổ chức với 95.665 người tham gia làm “Chiến sĩ diệt dốt”, hầu hết là thanh niên và thiếu niên. Chỉ sau một năm đã có 2.500.000 người thoát nạn mù chữ. Hệ thống giáo dục phổ thông và đại học cũng được xây dựng và từng bước phát triển. Tiếng Việt được dùng trong các văn bản chính thức của Nhà nước và trong việc học tập, giảng dạy ở các trường lớp.
Tháng 9-1945, nhân ngày khai trường năm học đầu tiên sau ngày cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho học sinh dặn dò các cháu cố gắng, siêng năng học tập, ngoan ngoãn nghe lời thầy cô, thi đua với bạn để sau này đem tài năng đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước.
Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”.
Cùng với việc lãnh đạo xây dựng các đoàn thể cứu quốc, Đảng ta chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống nhất do giai cấp công nhân lãnh đạo để đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc phấn đấu vì mục tiêu chung của đất nước. Đầu năm 1946, Đảng chủ trương hình thành mặt trận thanh niên nhằm tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên để kháng chiến và kiến quốc, đó là tổ chức Đoàn Thanh niên Việt Nam. Trong mặt trận này, Đoàn TNCQ đóng vai trò là lực lượng nòng cốt.
Để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, Đảng ta chủ trương gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và củng cố quốc phòng: Tháng 1 năm 1946, Quân ủy Trung ương được thành lập nhằm giúp Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo công tác quân sự. Đông đảo đoàn viên, thanh niên đã hăng hái tham gia các đơn vị tự vệ và tự vệ chiến đấu được thành lập ở tất cả các khu phố, thị xã; trên cơ sở đó, tuyển lựa những chiến sĩ có giác ngộ chính trị, có tinh thần chiến đấu, đưa vào bộ đội tập trung. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang nhân dân phát triển nhanh chóng trở thành công cụ mạnh mẽ, bảo vệ đắc lực chính quyền cách mạng.
Đầu năm 1946, mặc dù tình hình chiến tranh ngày càng phức tạp nhưng để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và đập tan sự xuyên tạc của kẻ thù, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định tổ chức Tổng Tuyển cử trong cả nước để bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, xây dựng Hiến pháp của Nhà nước Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng Tuyển cử được tổ chức trên khắp mọi miền đất nước.
Cuộc Tổng tuyển cử thật sự là cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt bởi thù trong, giặc ngoài đang tìm mọi cách lật đổ chính quyền nhân dân non trẻ. Nhiều cán bộ, đoàn viên, thanh niên phải hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tuyên truyền, vận động và bảo vệ cuộc Tổng tuyển cử.
Mặc dù địch ra sức phá hoại, cuộc bầu cử đã thu được thắng lợi to lớn. Tỷ lệ người đi bầu rất cao, trung bình là 86%, nhiều nơi đạt trên 90%: Những đại biểu do Mặt trận Việt Minh giới thiệu đều trúng cử với số phiếu cao nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh ứng cử ở Thủ đô Hà Nội được cử tri tín nhiệm với 98,4% số phiếu bầu. Nhân dân cả nước đã bầu ra 333 đại biểu vào Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đại biểu Quốc hội trẻ nhất là Nguyễn Đình Thi, 21 tuổi là nhà thơ, nhạc sĩ, một cán bộ Đoàn hoạt động tích cực trong phong trào thanh niên học sinh yêu nước ở Hà Nội.
Trước tình hình thực dân Pháp nổ súng tiến công ta ở Nam Bộ, bọn Tưởng Giới Thạch muốn lợi dụng cơ hội này thôn tính nhanh miền Bắc Việt Nam. Đầu tháng 10 năm 1945, Hà Ứng Khâm, Tổng tham mưu trưởng quân đội Tưởng Giới Thạch đến Hà Nội để thực hiện âm mưu nói trên. Nhưng trước cuộc biểu dương lực lượng của hơn 300.000 thanh niên và nhân dân Thủ đô với đội ngũ chỉnh tề, bằng cờ biểu ngữ rợp trời, hô vang các khẩu hiệu: “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “Ủng hộ Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, “Ủng hộ Việt Nam độc lập Đồng minh”, “Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”... Hà Ứng Khâm phải chùn tay ngay từ giờ phút đầu trong việc thực hiện ý đồ thâm độc của y.
Chấp hành chủ trương của Đảng là thực hiện sách lược hòa với Tưởng để kháng chiến chống Pháp xâm lược, Đoàn giáo dục cho đoàn viên, thanh niên tinh thần đấu tranh kiên quyết nhưng phải hết sức bình tĩnh, mềm dẻo, cảnh giác, không mắc mưu khiêu khích của quân Tưởng và bọn tay sai phản động. Ở Hà Nội, đông đảo đoàn viên, thanh niên gia nhập các đơn vị tự vệ chiến đấu. Lực lượng tự vệ Thủ đô đã lập nhiều chiến công xuất sắc, hỗ trợ đắc lực cho các phong trào đấu tranh của thanh niên, học sinh; góp phần phát hiện, ngăn chặn nhiều vụ mưu sát, bắt cóc cán bộ, tống tiền nhân dân của bọn phản động.
Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định rồi sau đó đánh rộng ra cả Nam Bộ, Nam Trung Bộ với sự ủng hộ của quân Anh. 7 giờ sáng 23-9, Xứ ủy và Ủy ban Hành chính Nam Bộ (sau đổi thành Ủy ban Kháng chiến) họp khẩn cấp tại phố Cây Mai (Chợ Lớn) có đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh tham dự. Hội nghị quyết định phát động nhân dân kiên quyết kháng chiến chống xâm lược. Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập, ra lệnh Tổng bãi công, bãi thị, bất hợp tác với địch, phong tỏa địch...
Tuổi trẻ Nam Bộ cùng nhân dân Nam Bộ không tiếc xương máu, anh dũng bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ.
Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến, tuổi trẻ Sài Gòn đã ghi được nhiều chiến công xuất sắc. Đến 23-9-1945, một đơn vị thanh niên cảm tử đã bảo vệ các đồng chí cán bộ của Trung ương Đảng, Xứ ủy và Ủy ban rút ra khỏi thành phố an toàn. Các tầng lớp thanh, thiếu niên đều tham gia vào các tổ chức chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tiến hành cuộc chiến tranh du kích ngay trong thành phố. Các cơ quan thông tin của ta đưa hình tượng Lê Văn Tám đã xả thân đốt kho xăng của giặc gây xúc động lớn và cổ vũ mạnh mẽ thanh thiếu niên, trong phong trào yêu nước chống giặc ngoại xâm. Các tỉnh Nam Bộ đưa lực lượng đoàn viên, thanh niên về góp sức với Sài Gòn chống quân xâm lược. Nhiều trận đánh làm địch hoảng sợ như trận phục kích khu quân sự ở vùng ngoại ô Tân Định ngày 24-9-1945, diệt 200 tên; trận tấn công bất ngờ trại lính Pháp trên đường Duvuê (Hùng Vương ngày nay) diệt 100 tên, trận phục kích ở Gò Vấp ngày 28-9-1945, bắn chết tên đại tá Diuy. Ngày 30-9-1945 đội TNXP Đoàn Dũng và Đoàn Tiến phục kích tại cầu chữ Y diệt 2 xe chở đầy lính Pháp; ngày 25-9-1945, một đội du kích phá Khám lớn giải phóng tù chính trị, đột nhập vào tận nhà tên ĐờliNhông diệt 3 sĩ quan địch.
Nhiều tấm gương hy sinh anh dũng tuyệt vời của tuổi trẻ Sài Gòn đã động viên tinh thần giết giặc cứu nước của nhân dân cả nước. Đó là một tổ du kích gồm 3 thanh niên đang làm nhiệm vụ trong nội thành, bất ngờ gặp địch. Anh tổ trưởng phân công đối phó ngay: “Tao tay không đi trước cho nó bu lại xét, thằng thứ hai ném lựu đạn, còn một đứa về báo cáo. Dầu có hy sinh một đứa chẳng hề gì”. Sáng hôm sau, các báo đưa tin: “Tại đầu đường Galiêni một tổ du kích đánh lựu đạn diệt 10 tên Pháp, ta có 2 chiến sỹ hi sinh”. Một thiếu niên đi rải truyền đơn trong trại lính chẳng may bị bắt. Tên sĩ quan Anh tra hỏi, em trả lời rõ ràng: “Người sung sướng là được chết cho Tổ quốc... Lúc này tôi chỉ nghĩ một điều như vậy”. Tên sĩ quan Anh ra lệnh thả em về.
Ở Biên Hòa, các em thiếu niên lập “Đội thiếu niên xung phong cảm tử” gồm 30 em, làm nhiệm vụ trinh sát và trừ gian...
Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng bào cả nước theo dõi từng ngày tình hình chiến sự ở Nam Bộ và phát động phong trào ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ, Nam Trung Bộ, đồng thời tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu của Pháp mở rộng chiến tranh ra cả nước.
Ngày 18-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp - đặc trách quân sự của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào mặt trận Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ để nắm tình hình chiến trường và truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Trung ương và Bác Hồ, động viên đồng bào chiến sĩ giữ vững tinh thần kháng chiến, phát động phong trào du kích chiến tranh để kìm chân địch và hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước.
Phong trào “Nam tiến” lôi cuốn hàng chục vạn thanh niên lên đường vào Nam chiến đấu. Các tỉnh ở Bắc Bộ, Trung Bộ đều thành lập những chi đội, tiểu đoàn khẩn cấp vào Nam. Đầu tháng 11-1945, chi đội 1 quân Nam tiến Hải Phòng lên đường vào Nam đánh giặc. Thành phố Huế gửi vào Nam 3 chi đội, Quảng Nam gửi 5 chi đội, riêng Quảng Ngãi gửi khoảng 15.000 chiến sĩ, Thủ đô Hà Nội gửi 10.000 đoàn viên, thanh niên ưu tú vào tiếp sức cho Nam Bộ đánh giặc; Nam Định gửi 2 đại đội, Ninh Bình gửi 3 đại đội, Hà Nam gửi 1 tiểu đoàn cùng 50 cán bộ chi viện cho Nam Bộ.
Phong trào xung phong vào Nam đánh giặc đi vào từng gia đình, cuốn hút tình cảm của mọi lứa tuổi. Gia đình ông Hoàng Tâm Tích ở Hải Phòng đã tình nguyện cho cả 3 người con trai được vào Nam chiến đấu trong đợt đầu tiên. Tấm gương em thiếu niên Hà Nội trốn trong toa than tàu hỏa để theo các chiến sĩ vào Nam đánh giặc và đã hy sinh anh dũng ở mảnh đất miền Trung với chiếc bát sắt đeo bên mình. Không biết tên em, đồng đội gọi em: “Chiến sĩ bát sắt”. Noi gương em, thiếu niên Hà Nội đã lập đội tình báo chiến đấu trong lòng địch với tên gọi Đội bát sắt.
Những “Ngày Nam Bộ”, “Phòng Nam Bộ”, “Vũ khí cho Nam Bộ” thật rầm rộ, sôi nổi trong cả nước.
Cùng với Nam Bộ, tiếng súng kháng chiến ở Nha Trang nổ ra đêm 22 rạng 23-10-1945. Đêm ấy, Đại đội trưởng Võ Văn Ký quê ở Ninh Hòa đã hy sinh anh dũng khi chỉ huy đơn vị tấn công nhà ga với lựu đạn và súng trường. Ngày nay, con đường trước ga Nha Trang, nơi anh ngã xuống đêm 23-10-1945 được mang tên anh, đường Võ Văn Ký.
Chỉ trong khoảng 100 ngày đêm kháng chiến, quân dân Sài Gòn đã phá hủy 139 cơ sở phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp, đốt phá 22 kho, 17 đầu máy xe lửa... và quân dân toàn Nam Bộ đã tiêu diệt 5.000 lính Pháp. Nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh oanh liệt của đoàn viên thanh niên như đội cảm tử gồm 5 thanh niên Cần Thơ do anh Lê Bình chỉ huy, bất ngờ tập kích vào đồn Cái Răng diệt gọn một đại đội địch. Lê Bình hy sinh. Lúc này anh mới 22 tuổi. Trả thù cho anh, đội du kích mang tên anh đã phục kích đánh địch ở ngã tư Cái Sơn làm hỏng 1 tàu, diệt 2 tên Pháp và 1 tên Việt gian... Liệt sĩ Lê Bình được Nhà nước ta truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tại mặt trận Bình Thủy, các anh Trần Văn Quế, Nguyễn Văn Hạnh, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Anh Võ Văn Thơm chỉ huy đội cảm tử ở Gò Công đã cùng đồng đội chiến đấu quyết liệt khi giặc tràn đến. Anh đã hy sinh anh dũng. Chính quyền cách mạng lấy tên anh đặt cho ấp chợ Tân Hòa. Đó là ấp Hòa Thơm, nơi anh đã hy sinh vì đất nước.
Cuộc kháng chiến của quân dân Nam Bộ đã giam chân thực dân Pháp, tạo điều kiện để ta củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Tháng 2-1946, thay mặt Chính phủ và đồng bào cả nước Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Nam Bộ danh hiệu vẻ vang: “Thành đồng Tổ quốc”.
*
*   *
Sau Cách mạng Tháng Tám, Đoàn Thanh niên Cứu quốc được xây dựng, củng cố từng bước về tư tưởng và tổ chức để chuẩn bị lực lượng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược.
Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng, các cấp ủy Đảng từ Xứ ủy đến các tỉnh, thành ủy đều coi trọng công tác tổ chức, vận động và giáo dục thanh niên. Chính phủ lập Nha thanh niên do các ông Dương Đức Hiền, Đào Duy Kỳ làm Giám đốc và Phó Giám đốc để phối hợp với Đoàn Thanh niên Cứu quốc trong công tác tổ chức vận động thanh niên tham gia kháng chiến và kiến quốc.
Tháng 6 năm 1946, tổ chức Tổng Đoàn thanh niên Việt Nam, Mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên ra đời do Đoàn TNCQ làm nòng cốt.
Các cơ sở Đoàn được hình thành ở hầu khắp các nhà máy, xí nghiệp, đường phố, trường học, làng xã, từ thành phố đến nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi. Hệ thống Đoàn được củng cố và thống nhất từ cấp xã lên cấp xứ. Nhiều đại hội Đoàn các cấp đã được triệu tập.
Ngày 27-9-1945, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc thành Hoàng Diệu (Hà Nội) khai mạc tại Nhà hát Lớn thành phố với 105 đại biểu thay mặt cho các cơ sở Đoàn trong toàn thành phố.
Đại hội vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị Bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời đến thăm.
Cả hội trường xúc động lắng nghe lời huấn thị của Bác Hồ. Người đánh giá cao vai trò của thanh niên Hà Nội trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền và đang phát huy vai trò tích cực trong nhiệm vụ bảo vệ chế độ mới. Người ân cần nhắc nhở tổ chức Đoàn cần khắc phục tình trạng thiếu chủ động, thiếu tổ chức chặt chẽ, tăng cường đoàn kết, tập hợp các tổ chức thanh niên, chăm lo dìu dắt thiếu niên nhi đồng... hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề mà Tổ quốc và nhân dân giao phó...
Trong những ngày đầu tiên của nước Việt Nam vừa giành được độc lập, tự do, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc thành Hoàng Diệu thành công tốt đẹp là một sự kiện lịch sử trọng đại trong đời sống chính trị của thanh niên Thủ đô và thanh niên cả nước.
Tiếp đó, Đại hội Xứ Đoàn Thanh niên Cứu quốc Bắc Bộ được tổ chức tại Nhà hát Lớn thành phố vào ngày 25-11-1945, dự đại hội có 120 đại biểu thay mặt cho đoàn viên thanh niên của 21 tỉnh, thành phố, Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Phạm Văn Đồng đã đến thăm và huấn thị tại Đại Hội. Đồng chí Nguyễn Lam được Đại hội bầu làm Bí thư Xứ Đoàn TNCQ Bắc Bộ.
Tháng 11-1946, Đại hội Đoàn TNCQ các tỉnh Trung Bộ khai mạc tại thành phố Huế. Trên 150 đại biểu đại diện cho 13 vạn cán bộ, đoàn viên thanh niên từ Thanh Hóa đến các tỉnh cực Nam Trung Bộ về dự Đại hội. Đại hội được đồng chí Nguyễn Chí Thanh Uỷ viên Trung ương Đảng Bí thư Xứ ủy Trung kỳ đến thăm và nói chuyện. Toàn thể Đại biểu dự Đại hội nêu cao ý chí của thanh niên Trung Bộ nguyện chiến đấu hy sinh đến cùng chống thực dân Pháp xâm lược. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Xứ đoàn TNCQ Trung Bộ do đồng chí Trần Văn Bành làm Bí thư
Cuối năm 1945, Đoàn đại biểu Thanh niên Cứu quốc Nam Bộ do Huỳnh Tấn Phát dẫn đầu đã vượt qua vòng vây của quân thù, ngày đêm lội suối băng rừng ra Hà Nội tham dự Đại hội thanh niên toàn quốc
Đoàn đến Hà Nội vào những ngày đầu tháng 11-1945. Ngay sau đó, ngày 10-11-1945, đoàn đã được gặp Hồ Chủ tịch kính yêu.
Đoàn báo cáo với Hồ Chủ tịch phong trào thanh niên Nam Bộ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Người khen ngợi thành tích của toàn thể thanh niên Nam Bộ đã kiên cường đánh giặc. Bác vô cùng xúc động trước những tấm gương chiến đấu, hy sinh anh dũng của thanh, thiếu nhi Nam Bộ.
Đoàn đại biểu thanh niên Trung Bộ do Hồng Chương và Hồ Mỹ Xuyên từ Huế ra Hà Nội báo cáo với Hồ Chủ tịch về phong trào thanh niên Trung Bộ. Các đồng chí đã thay mặt thanh niên miền Trung xin hứa với Người đi đầu trong phong trào kháng chiến, kiến quốc, tích cực thực hiện nhiệm vụ chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm mà Người đã trao cho tuổi trẻ cả nước.
Ở Hải Phòng, tháng 9-1945, Ban Chấp hành Thành bộ Thanh niên Cứu quốc được thành lập do Nguyễn Công Tỉnh, Thành ủy viên làm Bí thư.
Ở Quảng Nam, Đại hội đại biểu Đoàn thanh niên Cứu quốc lần thứ nhất được triệu tập tại Hội An vào ngày 25 tháng 10 năm 1945. Đại hội bầu Ban Chấp hành Tỉnh Đoàn do Trần Thượng Hàm làm Bí thư. Tháng 4-1946, Đại hội lần thứ II được triệu tập với nhiệm vụ tổ chức, động viên đoàn viên, thanh niên tham gia kháng chiến, kiến quốc bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành mới do Chế Viết Tấn làm Bí thư. Tỉnh Đoàn đã xuất bản được 1 tờ báo và 1 tạp chí lấy tên là “Hừng đông”. Đến tháng 12-1946, số lượng đoàn viên cả tỉnh đã lên đến 80.000 người.
Cuối năm 1946, Đại hội đại biểu Đoàn TNCQ toàn tỉnh Thanh Hóa được tổ chức. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Tỉnh Đoàn gồm 17 đồng chí do Lê Ngọc Huỳnh làm Bí thư.
Ở Nam Bộ, cuối năm 1946 Xứ ủy chủ trương củng cố tổ chức Đoàn Thanh niên Cứu quốc và phát triển phong trào thanh niên. Các ban vận động, Ban Chấp hành lâm thời Tỉnh Đoàn được thành lập. Các tỉnh đều tiến hành công tác củng cố và phát triển cơ sở Đoàn. Các huyện, xã ở Mỹ Tho, Bến Tre... đều thành lập được Ban Chấp hành. Hai Tỉnh Đoàn này mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cho cơ sở. ở Cần Thơ, 2/3 số huyện trong tỉnh có Ban Chấp hành, ở Sóc Trăng xây dựng được 36/56 cơ sở Đoàn. ở Bạc Liêu, trong tháng 9, 10, 11-1946, hệ thống tổ chức của thanh niên Cứu quốc được hình thành từ cơ sở trở lên.
Trong điều kiện cuộc kháng chiến chống Pháp của quân dân Nam Bộ diễn ra quyết liệt, nhưng đến cuối năm 1946, Đoàn Thanh niên Cứu quốc Nam Bộ đã xây dựng được cơ sở hầu khắp các tỉnh, thành, huyện, thị... Đoàn đã động viên đoàn viên thanh niên tích cực tham gia quân du kích, tòng quân xây dựng lực lượng vũ trang, tham gia chiến đấu, phá tề, trừ giam...
Sau khi Hiệp định sơ bộ 6-3 được ký kết, Đoàn Thanh niên Cứu quốc chấp hành chủ trương của Đảng, tranh thủ thời gian hòa hoãn để củng cố, phát triển lực lượng, chuẩn bị mọi điều kiện cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ đồng thời hết sức cảnh giác, ngăn chặn các âm mưu lật đổ, hành động khiêu khích, phá hoại của thực dân Pháp và bọn phản động.
Ngày 12-7-1946, lực lượng công an xung phong phối hợp với các đội tự vệ thanh niên tiến công bọn nội phản ở số nhà 132 phố Đuyvinhô và ở số 7 phố Ôn Như Hầu, chặn đứng được mưu đồ gây bạo loạn, lật đổ chính quyền cách mạng của bọn Pháp và tay sai.
Bộ mặt xâm lược của thực dân Pháp ngày càng lộ rõ. Đảng ta khẩn trương xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng. ở Hà Nội, cuối tháng 6-1945, lực lượng tự vệ chiến đấu và tự vệ thành được hợp nhất với tên gọi Thanh niên tự vệ Hà Nội. Thành Đoàn TNCQ thành Hoàng Diệu đã cử các cán bộ có năng lực vào ban chỉ huy của lực lượng thanh niên tự vệ. Đơn vị pháo 75 ly, đơn vị hỏa lực mạnh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập vào tháng 6-1946 đã xây dựng được 4 pháo đài ở Láng, Xuân Tảo, Xuân Canh, Đào Xuyên sẵn sàng trong tư thế bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Ở Hải Phòng, Đội thanh niên xung phong được thành lập từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự trị an, trấn áp bọn phản cách mạng. Với chức năng là lực lượng an ninh đặc biệt, đội đã góp phần đắc lực trong nhiệm vụ bảo vệ Nhà nước cách mạng, bảo vệ Nhân dân. Trường huấn luyện thanh niên Tô Hiệu của Hải Phòng đã kịp thời đào tạo được 2 khóa cán bộ với trên 200 học viên, cung cấp cán bộ kịp thời cho cuộc kháng chiến.
Đoàn viên, thanh niên trong cả nước sôi nổi luyện tập quân sự và tham gia các lực lượng vũ trang. ở Thanh Hóa, mỗi làng đều có trung đội du kích và tự vệ. Đội “Thanh niên xung phong” ở thị xã được thành lập gồm 200 đoàn viên, thanh niên. Chi đội chủ lực đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa được thành lập với 1.500 chiến sĩ, mang tên Chi đội Đinh Công Tráng, Đội tự vệ thị xã được thành lập vào đầu năm 1946. Ở Quảng Nam - Đà Nẵng, hàng nghìn thanh niên tham gia Vệ quốc đoàn, tự vệ chiến đấu, công an xung phong... Ở Đà Nẵng, Hội An, thành lập được các phân đội nữ giải phóng quân. Anh chị em đã tự sắm vũ khí và quyên góp được 20.000 đồng ủng hộ Chính phủ mua sắm vũ khí chuẩn bị kháng chiến.
Đến cuối năm 1946, đoàn viên và thanh niên chiếm trên 90% trong số 8 vạn chiến sĩ trong quân đội thường trực và 1 triệu rưỡi chiến sĩ trong quân du kích, tự vệ chiến đấu. Tại Hà Nội, không khí chuẩn bị chiến đấu khẩn trương, sôi động. Các đội thanh niên tự vệ gấp rút chuẩn bị trận địa, hầm, hào để đánh địch. Ý chí bảo vệ Hà Nội của thanh niên được viết thành khẩu hiệu dán khắp nơi: “Thanh niên thành Hoàng Diệu nguyện sống chết với Thủ đô”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cứu quốc và phong trào thanh niên đã góp phần tích cực trong sự nghiệp bảo vệ, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân, xây dựng chế độ mới, tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ của dân tộc. Qua hơn một năm hoạt động dưới chế độ mới, Đoàn Thanh niên Cứu quốc đã phát triển rộng khắp. Hệ thống tổ chức Đoàn được kiện toàn từ cơ sở lên đến tỉnh, thành ở cả 3 miền. Đó là điều kiện rất quan trọng về chính trị và tổ chức để Đoàn bước vào cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược.

Liên kết website